Thế hệ những người như cha tôi cùng bao người dân khác lúc bấy giờ đã cống hiến hết mình, sẵn sàng xả thân vì đất nước. Cái thời đẹp nhất ấy, vô tư trong sáng ấy một đi không trở lại.
Hôm nay, 19/12/2020, quê nhà tổ chức đại lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Chủ tịch nước phong tặng.
Một ngày hội lớn để mỗi người dân Xuân Lâm dù ở quê hay đang có mặt trên khắp mọi miền đất nước bày tỏ niềm vui hạnh phúc và niềm tự hào lớn lao đối với quê hương yêu dấu. Xin bày tỏ niềm kính phục, lòng ngưỡng mộ và sự tri ân đối với các thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu, đã đổ bao mồ hôi nước mắt để có được danh hiệu cao quý ngày hôm nay.
Đầu buổi sáng nay, tôi gọi điện về nhà gặp cha, hỏi xem ông có đi dự lễ không. Giọng ông sang sảng: Có chơ! Rứa ai chở cha đi? – Thằng Nhung (em trai tôi). Có ai đi cùng nữa không? Ông bảo, cả nhà. Cả nhà đây là ông cụ cùng vợ chồng chú em.
Tôi chúc mừng cha – một lão thành cách mạng – người đã góp phần không nhỏ trong thành tích chung của xã nhà trong suốt cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
Thế hệ những cán bộ xã nòng cốt thời liệt oanh ấy, bây giờ còn được mấy ai? Cha tôi năm nay cũng đã bước qua tuổi chín mươi. Chẳng hay các cụ đi trước, an nhiên miền cực lạc có biết được ngày vui hôm nay của quê hương không? Tôi nghĩ, nơi suối vàng chắc các cụ cũng ngậm cười bởi máu xương, công lao một thời hy sinh, chiến đấu vì độc lập, tự do của các cụ không uổng, đã được nhà nước và lịch sử ghi nhận, con cháu đời đời tri ân.
*
Tôi không biết cha mình tham gia hoạt động từ lúc nào bởi chẳng bao giờ thấy ông khoe, mẹ tôi cũng chẳng bao giờ nói (sau này lớn lên nhờ mấy lần khai lý lịch tôi mới hay). Chỉ biết là hồi ấy ông cứ vắng nhà liên miên. Lớn lên một chút, tôi cảm nhận được hình như ông đang giữ chức vụ gì đó trong hợp tác xã hay ủy ban.
Rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan ra miền Bắc. Cha tôi bị cuốn vào công việc chung của địa phương thời chiến. Việc nhà, việc đồng áng, việc chăm sóc mẹ chồng mù lòa và nuôi dạy đàn con bảy đứa, một mình mẹ tôi lo liệu. Anh em chúng tôi chỉ giúp được mỗi việc chăn bò, cắt cỏ. Ấy vậy mà còn nhác, luôn lấy cớ bận học để thoái thác. Sau này lớn lên, ý thức được thì đã muộn. Tôi vào lập nghiệp tít tận Tây Nguyên xa xôi, mỗi lần về quê chỉ như chuồn chuồn thắp nước.
Năm 1968 chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt. Làng tôi phải hứng chịu mấy trận bom Mỹ liên tiếp. Cha tôi lúc đó là chủ tịch xã Nam Lâm (Xuân Lâm ngày nay là tên gọi sau khi hợp nhất ba xã Nam Lâm, Nam Quang, Nam Mỹ vào ngày 10/5/1969) đã cùng tập thể cán bộ địa phương không quản vất vả, gian khổ, hiểm nguy, lãnh đạo nhân dân xã nhà chắc tay súng, vững tay cày, thực hiện quyết liệt khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Tôi còn nhớ, nhà tôi lúc bấy giờ treo trang trọng gian giữa bức trướng nhỏ bằng vải đỏ viết chữ màu vàng son do UBND huyện Nam Đàn tặng xã Nam Lâm, đơn vị xuất sắc nhất trong phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước năm 1968. Tiếc thay, kỷ vật lịch sử đó không còn nữa.
Mùa hè 1972 là thời điểm cực kỳ ác liệt trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai của giặc Mỹ. Huyện Nam Đàn thành lập một tiểu đoàn xe đạp thồ chi viện hàng hóa cho tiền tuyến do bác San – người Nam Kim, sau này là trưởng công an huyện - làm tiểu đoàn trưởng. Cha tôi là đại đội trưởng xe đạp thồ của xã Xuân Lâm. Địa bàn hoạt động của đơn vị trải dài 3 tỉnh thuộc tuyến lửa khu 4 làNghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Mấy lần đoàn xe thồ của xã bị máy bay địch đánh tọa độ, nhiều người bị thương, có người hy sinh. Đó là những tháng ngày cả nhà tôi thấp thỏm âu lo. Chiến tranh ác liệt quá. Những năm tháng ấy, không nơi nào trên mảnh đất hình chữ S là không đối mặt với mất mát, hy sinh.
Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, làng tôi nhiều lần bị bom đạn giặc tàn phá. Có những trận tôi không được chứng kiến vì mình còn nhỏ tuổi nhưng cũng có những lần tận mắt nhìn thấy cảnh tang thương. Đó là trận bom lúc gần sáng, tan hoang xóm dưới nơi nhà cụ Đạo, cạnh đó có phòng học lớp ba của tôi; trận bom xóm cồn Thành, lửa cháy ngút trời; trận bom bi buổi tối, sáng ra thấy cửa hầm trú ẩn thủng lỗ chỗ. Thật hú vía, may mà lúc đó cả nhà tôi kịp chạy vào ẩn náu phía trong ngách hầm; trận bom vào lúc tảng sáng mùa hè năm 1972, đánh vào trận địa pháo 14 ly 5 của ta bên Cồn, tàn phá xóm Vụng,… Một trong những khẩu pháo bị địch phá hủy sau trận đó được kéo về để bên vườn ông chú Quyền Quý, sát nhà tôi, trở thành đồ chơi của mấy đứa trẻ trong xóm vì vẫn còn quay nòng lên xuống được. Tôi còn nhớ trong số người bị thương hôm đó có Hòe - em trai Quế Xuân, bạn cùng lứa với tôi - bị bom cắt cụt chân, được cứu thương đưa về hầm chữ A của xã phía sau nhà tôi, nhưng không qua khỏi vì mất quá nhiều máu.
Đó là những năm tháng ác liệt, đầy gian khổ, chết chóc. Thế hệ những người như cha tôi cùng bao người dân khác lúc bấy giờ đã cống hiến hết mình, sẵn sàng xả thân vì đất nước. Cái thời đẹp nhất ấy, vô tư trong sáng ấy một đi không trở lại.
Nhân đây tôi kể vài câu chuyện. Trong một lần vận chuyển hàng, đơn vị xe đạp thồ của cha tôi bị máy bay Mỹ đánh bom. Hôm sau tôi thấy người ta chở về một đống xe Phượng hoàng (Trung Quốc) chừng hai ba chiếc bị bom đánh dúm dó, tống vào dưới gầm giường nhà tôi. Ngày ấy, xe đạp đang là của hiếm, xe Phượng hoàng lại rất nổi tiếng vì chất lượng tốt, chắc bền. Phụ tùng của nó thì chuẩn thôi rồi. Lúc đó tôi có một chiếc xe đạp cũ cha mẹ mua cho để đi học cấp ba. Nhìn những chiếc xe Phượng hoàng dù bị bom làm cho vẹo vọ nhưng phụ tùng vẫn sáng loáng, nghĩ đến con xe cọc cạch của mình mà thèm. Tôi không dám thổ lộ vì sợ cha mắng, mà chắc chắn là thế bởi tôi hiểu tính ông cụ lắm. Nhưng rồi không đừng được sự cám dỗ, tôi lựa lúc người lớn đi vắng, “khoắng” một mẻ. Ấy vậy mà vừa mần vừa run, chỉ dám lấy một chiếc bánh xe bị bom vặn số 8, trốn vào góc nhà tháo côn trục ra, lấy mấy viên bi tráo sang xe mình. Xong việc “tày đình” đó, tôi thở phào nhẹ nhõm, nghĩ có tài thánh cũng không ai biết được. Đống xe đạp Phượng hoàng “mất sức chiến đấu” vẫn y nguyên, sau này người ta đưa đi đâu tôi không biết.
Cũng thời điểm ác liệt của năm 72, nhà tôi được cấp trên mượn làm kho chứa gạo. Sáng ngủ dậy, tôi đã thấy gian ngoài chất tận nóc những bao tải gạo căng tròn. Bẵng đi một thời gian, tưởng như nhà nước đã quên kho gạo nhỏ lẻ này. Sau ngày giải phóng miền Nam vài năm, người ta mới cho xe đến chở đi. Gạo không mất một hạt dù ngày đó, nhà tôi cũng như bao gia đình khác trong thôn, vẫn phải ăn độn khoai, sắn, bo bo.
Có một chi tiết trong cuộc đời cha mà lâu nay không nghe ông kể, bây giờ mới được ông “tiết lộ”. Ấy là hồi cải cách ruộng đất, cha tôi bị một người trong làng vu cho liên quan đến Quốc dân đảng. Sau một tuần xác minh, không tìm được chứng cứ buộc tội, “đội” (những người có quyền sinh, quyền sát “dưới một người trên vạn người” trong CCRĐ) phải minh oan, cha tôi lại được mời ra làm việc tiếp.
Liệu có may mắn nào chăng bởi lúc ấy mấy ông “đội” mà cứ đằng đằng sát khí, chẳng thèm tra cứu cho ra nhẽ thì có lẽ, không chỉ đời cha tôi cơ cực mà con cái cụ cũng bị liên lụy, chẳng bao giờ ngẩng mặt lên nổi. Chủ nghĩa lý lịch, vòng kim cô một thời đã kìm hãm, giết chết bao người lương thiện, tài hoa.
*
Thời của cha và các bậc tiền bối, làm việc nước chí công vô tư, có khi đúng như câu tục ngữ “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Sau mấy chục năm lăn lộn với phong trào địa phương, đối mặt với bao nguy nan, chết chóc, đến khi nghỉ hưu, lương tháng của cụ qua mấy lần sửa đổi cũng chỉ hơn hai triệu một xíu.
Ngôi nhà nơi bảy anh em tôi sinh ra và lớn lên trải qua nhiều lần cơi nới. Trên khu đất chật hẹp của ông bà để lại, hồi ấy nằm sát bìa đồng, chen chúc nhà của ba anh em: Hai ông bác và cha tôi.
Nhà của cha tôi đúng chuẩn mô típ nhà nông thôn một thuở: Nhà chính một gian hai chái, vách che phên nứa, mái lợp tranh mía; nhà ngang có chái bếp cạnh chuồng bò, chuồng lợn. Có một kỷ niệm khó quên tuy chẳng nhớ năm nào, có lẽ là lúc tôi bốn năm tuổi.
Đêm ấy tôi ngồi xem cha chong đèn dầu đan rổ. Hồi chiều mưa to, những trận mưa rào đầu mùa hạ. Bỗng nghe có tiếng gì như là ai đang quẫy nước trong vườn mía sau nhà. Cha tôi vội vàng bảo mẹ cầm đèn chạy ra xem. Lát sau vào nhà, trên tay ông là một con chép rõ to đang quẫy mạnh. Thì ra sau trận mưa đầu mùa, cá dưới ao theo con nước tràn lên vườn tìm chỗ đẻ trứng.
Khi tôi lên bảy, lên tám, cha tôi lại làm nhà. Nói làm nhà cho oai chứ thực ra là sửa sang ngôi nhà cũ để lợp ngói, xây tường bao quanh. Kể ra lúc ấy được như thế cũng là oách lắm rồi. Có chuyện này nói ra có lẽ mọi người không tin. Một phần gạch làm nhà lấy từ cái nhà tiêu (nhà vệ sinh) của địa chủ bị tịch thu chia cho nông dân, cha tôi mua lại. Cái nhà tiêu ấy ở bờ ao nhà phía bên kia, bỏ hoang đã lâu, nom rất đồ sộ trong con mắt một đứa trẻ như tôi. Cuộc tháo dỡ cũng rất kỳ công để không làm vỡ một viên gạch, viên ngói. Cha tôi kết một bè chuối, mẹ ở trên chuyền gạch ngói xuống. Cha đẩy bè qua ao, cọ rửa từng viên trước khi xếp lên vườn nhà. Thời ấy, đến ván hòm cải táng người chết, người ta còn tận dụng không bỏ phí. Mà không làm thế, biết lấy đâu ra gỗ, ra gạch ngói ở cái thời khó nhọc của đất nước chứ không riêng gì mỗi gia đình?
Rồi cũng dễ đến vài chục năm sau, cha tôi lại cơi nới nhà tiếp. Số là ngôi nhà cũ nhỏ bé đến nỗi, cái cửa hông xuống nhà ngang thấp lè tè, khi tôi bước vào học cấp ba, người lênh khênh như que sậy, mỗi ngày cụng trán vào đố ngang cửa không biết bao nhiêu lần.
Tài sản vô giá mà cha mẹ để lại cho chúng tôi là bảy giọt máu các cụ sinh ra, nuôi dưỡng, trưởng thành. Những năm khó khăn gian khổ, cha lo gánh vác việc nước, mình mẹ chu toàn việc nhà. Trong bảng vàng chiến công oanh liệt của quê hương có phần đóng góp của cha và bao người nhưng thấp thoáng sau ánh hào quang đó là hình bóng của mẹ cùng những người vợ, người mẹ đảm đang khác, thầm lặng hy sinh nơi hậu phương để chồng con yên tâm chiến đấu, phục vụ chiến đấu vì tự do độc lập, vì sự trường tồn của đất nước.
Cha tôi và cháu ngoại
*
Bây giờ cha tôi đã ngoài chín mươi. May mà trời thương và tiên tổ phù hộ, cụ vẫn còn khỏe – cái khỏe của tuổi già - để hôm nay, may mắn hơn mẹ tôi, hơn nhiều bạn chiến đấu khác là được chứng kiến cảnh quê hương đang đổi mới từng ngày, được cùng bà con làng xóm đón nhận danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang thời chống Mỹ mà Nhà nước vừa trao tặng cho xã nhà.
Ngày quê nhà đón danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, 19-12-2020 Nguyễn Duy Xuân