Năm Tỵ nói chuyện rắn: Hình tượng rắn trong văn hóa và thơ ca
admin100
2025-01-24T02:42:19-05:00
2025-01-24T02:42:19-05:00
https://nguyenduyxuan.net/nguyen-duy-xuan-van/nam-ty-noi-chuyen-ran-hinh-tuong-ran-trong-van-hoa-va-tho-ca-12514.html
https://nguyenduyxuan.net/uploads/news/hoaphongcanh/linh-vat-ran.jpg
Nguyễn Duy Xuân
https://nguyenduyxuan.net/uploads/logotrong1.png
Thứ sáu - 24/01/2025 02:33
Chỉ với tám câu thơ và bằng lối chơi chữ độc đáo, nhà thơ đã lôi hết nội tông, ngoại thích họ nhà rắn gồm 8 “chi” ra giữa thanh thiên bạch nhật: liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn, hổ trâu, hổ mang.
Trong văn hóa nhân loại, từ cổ chí kim, từ văn hóa phương Đông đến văn hóa phương Tây, loài rắn được xây dựng thành hình tượng làm biểu tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, tính quyết đoán, tính đa nghi, độc ác,... Trên thế giới, nhiều dân tộc xem rắn là chúa tể của phụ nữ.
Biểu tượng y học đang dùng hiện nay mô phỏng hình ảnh con rắn quấn quanh cây gậy thép của Esculape – ông tổ ngành y dược - trong truyền thuyết Hy Lạp cổ đại. Còn biểu tượng của ngành dược lấy hình ảnh con rắn quấn quanh chén Hygeia mang tên con gái của Esculape.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, rắn được xem như một sinh vật linh thiêng. Một số nơi ở miền Nam, người dân lập miếu thờ rắn như một vị thần bảo vệ cuộc sống. Ở Hà Nội, lễ hội truyền thống làng Lệ Mật (phường Việt Hưng, quận Long Biên) có trò diễn diệt Giảo Long, mô tả và tái tạo theo Thần tích Đức Thánh Thành hoàng Lệ Mật với điệu múa Rắn độc đáo ở sân đình.
Trong văn học dân gian Việt Nam, rắn thường được sử dụng để thể hiện các chủ đề về sự nguy hiểm, sự khôn ngoan, nhưng cũng có thể là biểu tượng của sự tái sinh và sức mạnh tâm linh như trong truyền thuyết về "Lạc Long Quân và Âu Cơ" hay truyện cổ tích Thạch Sanh.
Trong văn học viết, hình ảnh rắn xuất hiện không nhiều, chủ yếu ở mảng thơ trào phúng. Phải chăng đó là do tính chất biểu tượng hai mặt tốt/xấu, nhưng thiên về mặt xấu (dữ dằn, độc ác) của loài động vật này?
Trong truyện "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, rắn xuất hiện một lần duy nhất ở cặp câu 2015-2016, đó là lần Kiều và Thúc Sinh đang sụt sùi tâm sự với nhau. Hoạn Thư nghe trộm được, song giả vờ như không hay biết gì, khiến cho Kiều lấy làm kinh sợ, phải nghĩ cách tự bảo vệ mình: "Thân ta, ta phải lo âu/Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này". Trong khi đó, rồng, biểu tượng của chân, thiện, mỹ – con vật huyền thoại có hình dạng giống rắn - có đến bốn lần xuất hiện ở các câu/cặp câu: 1865; 2195 - 2196; 2211- 2212; 2671 - 2672.
Trong thơ hiện đại, hình tượng rắn ít xuất hiện, nếu có thường mang tính biểu tượng về sự đấu tranh giữa các trạng thái cảm xúc. Xuân Diệu là một tác giả hiếm hoi nhắc tới hình ảnh loài rắn trong thể loại thơ trữ tình. Trong bài "Thanh niên", ông có cách liên tưởng táo bạo, mới mẻ: "Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn/Làm dây da quấn quít cả mình xuân/Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần/Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất". Nhà thơ ví cánh tay mình như… rắn là để nói lên sự quấn quít, gắn bó của ông với cuộc sống tuổi xuân ngập tràn hương sắc trong “vườn trần” nơi dương thế.
Tố Hữu cũng một lần đưa hình ảnh rắn vào thơ. Trong bài "Tâm sự" ông viết: "Chuyện cô du kích xóm Lai Vu/Rắn quấn bên chân, vẫn bắn thù/Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước/Rắn mình em chịu, có sao đâu". Hình ảnh cô du kích xóm Lai Vu - bất chấp hiểm nguy “rắn quấn bên chân” đe dọa sinh mạng cá nhân mình, “lo diệt trước” kẻ thù chung của trăm họ - trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm, đức hi sinh cao cả.
Hình tượng rắn xuất hiện đa dạng, độc đáo có lẽ chỉ có trong bài thơ “Răn học”, tương truyền của Lê Quý Đôn:
Chẳng phải liu điu cũng giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
(Theo Văn đàn bảo giám, cuốn I, 1925 của Trần Trung Viên)
Chỉ với tám câu thơ và bằng lối chơi chữ độc đáo, nhà thơ đã lôi hết nội tông, ngoại thích họ nhà rắn gồm 8 “chi” ra giữa thanh thiên bạch nhật: liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn, hổ trâu, hổ mang.
“Chẳng phải liu điu cũng giống nhà” làm ta liên tưởng đến câu ca dao “Trứng rồng lại nở ra rồng/Liu điu lại nở ra dòng liu điu”. Liu điu là một loại rắn nhỏ, sống gần nước, vô hại, tiêu biểu cho cuộc sống tầm thường. Câu phá đề của Lê Quý Đôn mượn ý ca dao, đối lập liu điu với giống nhà, ngụ ý về dòng dõi thế phiệt trâm anh của mình. Bài thơ khép lại bằng hai chữ thế gia, đồng nghĩa với giống nhà, như vòng cuộn tròn của rắn, đầu ngậm lấy đuôi.
Lê Quý Đôn xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc cho nên ông tự hào về gia thế của mình cũng là điều dễ hiểu. Bố ông là Lê Trọng Thứ, tiến sĩ, làm đến Thượng thư bộ Hình, tước Trung Hiếu Công. Mẹ ông là Trương Thị Ích, con gái thứ ba của tiến sĩ Trương Minh Lượng, tước Hoằng Phái hầu. Bản thân Lê Quý Đôn đỗ đại khoa, 17 tuổi thi Hương, 26 tuổi vào thi Hội, rồi thi Đình, cả ba lần đều đỗ đầu. Lê Quý Đôn làm rể tham tụng Lê Hữu Kiều, anh ruột Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Về họ hàng nhà rắn mà Lê Quý Đôn đã điểm mặt trong bài thơ
Hổ lửa, mai gầm là rắn độc, dài trên một mét, còn gọi là cạp nong, có khoang đen vàng xen kẽ nối liền về phía bụng; hay cạp nia, có khoang đen không nối liền về phía bụng, đều thuộc họ Rắn hổ (Elapidae). Gọi là hổ lửa vì có sắc đỏ như lửa (khác với rắn lửa, một loài rắn hiền lành). Gọi là rắn hổ mai (mai gầm, bạch mai xà hay bạch hoa xà) vì bụng trắng. Chúng đều là những loài rắn cực độc.
Hổ mang cũng là một loài rắn lớn và rất độc thuộc họ Rắn hổ, tên khoa học là Naja. Gọi là hổ mang vì có khả năng phồng mang, nghĩa là bạnh cổ khi bị kích thích. Khi ấy ở cổ hiện ra một vòng tròn màu trắng, gọi là mang. Loại rắn này thường màu nâu sẫm hay vàng lục.
Trâu Lỗ là tên làng Trâu Lỗ thuộc xã Mai Đình (Hiệp Hòa, Bắc Giang) - đất học nổi tiếng từ xa xưa – chăng? Tương truyền, tên làng Trâu Lỗ là lấy từ gốc tích quê hương của Khổng Tử và Mạnh Tử.
“Trâu” đồng âm với “trâu” chỉ rắn hổ trâu, còn gọi là hổ mang chúa, hay hổ chúa, tên khoa học là Ophiophagus. Gọi là hổ trâu vì da đen sẫm, thân hình to, dài đến bốn mét. Đây là một loại rắn cực độc và hung dữ, thường sống ở núi rừng, trong hang hốc. Rắn chủ động tấn công người, nhổm đứng phần trước thân, đến ngực người lớn, và bạnh cổ, nọc rất độc.
Rắn ráo thì ngược lại, hiền lành, sống ở các bụi tre, bờ ruộng, leo giỏi, có khi leo lên kèo nhà, xà nhà. Rắn dài đến 2 mét, thân nâu hay vàng lục, bụng màu vàng. Theo Huỳnh Tịnh Của, gọi là ráo vì rắn sống trên cạn, đối lập với rắn nước, nhưng theo tự điển Khai Trí Tiến Đức là do chữ “giáo” phát âm chệch, vì rắn đầu dài, hình mũi giáo.
Lằn là thằn lằn, cũng thuộc loài bò sát. Có lẽ Lê Quý Đôn ngụ ý chỉ rắn mối chăng?
Ngoài tên gọi tám loài rắn, nhà thơ còn đưa vào những từ ít nhiều quan hệ đến thân hình rắn: đầu, cổ, mép, lưng, vệt, lỗ và một loạt từ chỉ trạng thái, hoạt động như: thẹn, hổ, đau, thét, gầm, rát, liu điu, rắn, biếng, tha, lếu láo, lằn lưng, mang danh.
Hai câu thực của bài thơ thật độc đáo bởi lối chơi chữ đồng âm và đối ý, đối chữ chan chát: Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ/Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Từ những từ kép như hổ thẹn, đèn lửa, nay mai, gầm thét, tác giả đã khéo chia tách, đổi vị trí các yếu tố, tạo nên thành ngữ “thẹn đèn hổ lửa”, đối chan chát với “nay thét mai gầm”, khiến cho giọng điệu thơ đậm chất dân dã, hóm hỉnh mà vẫn uyên thâm.
Sự độc đáo còn thể hiện ở câu kết bài thơ. Các từ vốn chẳng có quan hệ gì với nhau như “hổ mang”, “danh tiếng” nhưng khi đứng cạnh nhau bỗng tạo nên trường liên tưởng thú vị, hàm ý sâu sắc: hổ (xấu hổ) vì mang tiếng thế gia.
Tháng 12/2024
Hoàng Anh