Sách “Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Văn Hành chủ biên - NXB Khoa học xã hội, 2011), thu thập và giải nghĩa các từ láy:
- “BÌNH BỒNG đgt. (id.). Như bồng bềnh. “Họ vẫn bình bồng trên mặt nước” (VHọc)”.
- “BỒNG BỀNH tt. 1. Ở trạng thái trôi nổi khi lên khi xuống nhẹ nhàng trên mặt nước. Đám bèo trôi bềnh bồng trên sông. “Cánh bèo nhỏ bồng bềnh trên sóng biếc”. 2. Trông như những cục bông xốp nhẹ, có thể thổi bay lên. Mái tóc bồng bềnh. “Bản em trên chóp núi, Sớm bồng bềnh trong mây” (Nguyễn Thái Vận)”.
- “BỀNH BỒNG tt. X. bồng bềnh. “Mây trắng xốp bềnh bồng tràn xuống”.
Các sách “Từ điển từ láy dành cho học sinh” (Th.s. Bùi Thanh Tùng – Ngô Thu Phương – Nguyễn Huy Hoàn, NXB Hồng Đức – 2011); “Sổ tay từ láy tiếng Việt dành cho học sinh” (Nguyễn Khánh Hà chủ biên – NXB Đại học quốc gia Hà Nội – 2016) đều thu thập “bềnh bồng”; “bồng bềnh”.
Tuy nhiên, đây từ Việt gốc Hán, cấu tạo đẳng lập: “bình” 萍 nghĩa là bèo, loài thực vật sống trôi nổi trên mặt nước sông hồ; “bồng” 蓬 là cỏ bồng, một loại cỏ thuộc họ Cúc, còn gọi là tai hùm, ngải dại, cổ bồng.
“Hán ngữ đại từ điển” giải thích: “bình bồng 萍蓬: cánh bèo nổi trôi, cỏ bồng gió thổi. Ví như hành tung chuyển dịch vô định. Lý Tồn (đời Nguyên) viết: “Đời người vô định, lưu lạc như cánh bèo, cỏ bồng.” [nguyên văn: 萍蓬 píng péng. 萍浮蓬飄. 喻行蹤轉徙無定. 元李存: “人生難定期,往往如萍蓬”].
Thành ngữ Hán cũng có câu “Bình phiêu bồng chuyển”, Hán điển giải thích: “Cánh bèo trôi nổi theo dòng nước, cỏ bồng phiêu lưu theo ngọn gió. Tỉ dụ cuộc sống phiêu bạt bất định.” [萍飄蓬轉: 浮萍隨水漂流,蓬草隨風飛轉.比喻飄泊不定的生活].
Cỏ bồng, còn gọi ngải dại, tai hùm
Khi hoa nở, muôn vàn hạt hoa bé xíu, nhờ mào lông
bay theo gió, gieo hạt khắp muôn nơi.
Ảnh: ST
Nghĩa của “bình” và “bồng” cũng được 7 cuốn từ điển tiếng Việt chúng tôi có trong tay ghi nhận rõ ràng như sau:
-“Từ điển Việt Nam phổ thông” (Đào Văn Tập): “bình bồng • Cánh bèo và cỏ bồng, trôi lênh đênh trên mặt nước. • Chỉ cảnh đời phiêu bạt <> bình bồng mặt nước chân mây”.
-“Việt Nam tự điển” (Hội Khai trí tiến đức): “bình bồng • Cánh bèo và cỏ bồng, trôi lênh-đênh trên mặt nước, dùng để ví người lưu-lạc <> Bình bồng còn chút xa-xôi (K)”.
-“Việt Nam tân tự điển” (Thanh Nghị): “bình-bồng • bt. Bèo và cỏ bồng, chỉ ý nói trôi-nổi, lênh-đênh <> Bình-bồng còn chút xa-xôi (Ng-Du). || Bình-bồng thảo”.
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “bình bồng • dt. Bèo và cỏ bồng, loại cỏ nổi • tt. X. Bềnh-bồng”; “bềnh bồng • trt. Trôi tới lui và bị nhồi lên xuống: Bềnh-bồng theo lượn sóng. • (B) Lênh-đênh, không nơi nương-tựa, không việc làm: Bềnh-bồng mấy tháng nay”.
-“Từ điển tiếng Việt” (Văn Tân chủ biên): “bình bồng • 1 d. Cánh bèo và cỏ bồng. 2 t. Lênh đênh trôi giạt nay đây mai đó: <> Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an (K)”.
-“Từ điển truyện Kiều” (Đào Duy Anh): “bình bồng: Bình là bèo, bồng là một thứ cỏ hễ gặp gió thì lốc lên mà lăn tròn trên mặt đất, hai thứ ấy người ta dùng để tỷ dụ cảnh lưu ly không có định sở. Vd. Bình bồng còn chút xa xôi”.
-Từ điển Vietlex đã đúng khi chú chữ Hán cho mục từ này: “bình bồng • 萍蓬 d. [cũ, vch] cánh bèo và cỏ bồng trôi lênh đênh trên mặt nước; dùng để ví thân phận lênh đênh, phiêu bạt nay đây mai đó: “Bình bồng ở giữa giang tân, Bên tình bên nghĩa bên thân thế nào?” (Cdao)”.[*]
Tuy nhiên, cần lưu ý, cách giải thích “cánh bèo và cỏ bồng trôi lênh đênh trên mặt nước” (Từ điển Vietlex), “Cánh bèo và cỏ bồng, trôi lênh đênh trên mặt nước” (Từ điển Đào Văn Tập), “Bèo và cỏ bồng, loại cỏ nổi” (Từ điển Lê Văn Đức)…khiến người ta lầm tưởng, cả cánh bèo và cỏ bồng đều có môi trường sống là mặt nước, sông hồ. “Từ điển truyện Kiều” tuy không đồng nhất môi trường sống của bèo và cỏ bồng, nhưng cách giải thích “bồng là một thứ cỏ hễ gặp gió thì lốc lên mà lăn tròn trên mặt đất”, lại khiến người ta hình dung gió “lốc” cả cây cỏ bồng lên, rồi thổi “lăn tròn trên mặt đất”. Kỳ thực, chỉ phần quả thuôn dài có mào lông của cỏ bồng là bay theo gió mà thôi.
Như đã nói ở trên, “bồng” 蓬 là một loài cỏ họ Cúc (Asteraceae), tên khoa học: Conyza canadensis (L.) Cronq, sống trên cạn, nơi đất hoang, đồi trọc, phát tán rộng rãi khắp toàn cầu.
Hoa của cây cỏ bồng khi nở thì bung ra, hình như quả cầu. Trong mỗi bông cỏ bồng có nhiều cánh thon dài, chứa hạt, một đầu hạt có túm bông trắng. Mỗi khi gió thổi, những hạt cỏ bồng nhờ mào lông mà bay lơ lửng trong không trung; có khi vương xuống ngọn cỏ, lá cây, mặt đất, rồi lại tiếp tục theo gió “phiêu du” vô định. Nhờ rong ruổi cùng gió, mà cỏ bồng (cũng như nhiều loài thực vật khác có cùng đặc điểm) được phát tán, gieo hạt đi khắp muôn nơi.
Như vậy, với “bình phù” 萍浮, thì đúng là “trôi lênh đênh trên mặt nước”, nhưng “bồng phiêu” 蓬飄, phải hiểu là gió thổi cỏ bồng, phiêu du khắp đó đây mới phải. Chữ “phiêu” 飄, trong “bồng phiêu” 蓬飄, hay “phiêu bồng” 飄蓬, đều có nghĩa là “thổi” (Kinh Thi 經詩: “phong kì phiêu nhữ 風其飄汝 - gió thổi mày đi”).
“Bình” 萍, tượng trưng cho sự luân lạc, trôi nổi lênh đênh trên mặt nước (“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân.” (Tuyện Kiều); “bồng” 蓬, điển hình cho sự phiêu du vô định trên mặt đất. Một cách nói ẩn dụ, hình tượng của dân gian về kiếp người luân lạc, thân phận phiêu dạt vô định, tưởng không gì có thể đắt hơn, hay hơn![**]
Hoàng Tuấn Công/3/2019
Chú thích:
[*] Cần phân biệt với một loại thực vật người Trung Quốc gọi là “bình bồng thảo” 萍蓬草 (mà từ điển của Thanh Nghị đã ghi nhận ở nghĩa 2), sống ở môi trường nước cạn, ao hồ, có hoa vàng, rễ bám xuống đất, mọc cố định, chứ không nổi trôi như bèo.
[**] Hiện nay, “bình bồng”, hay “bềnh bồng” với nghĩa “Lênh đênh trôi giạt nay đây mai đó” ít còn được dùng, mà “bềnh bồng”, “bồng bềnh” chủ yếu được hiểu như Từ điển Vietlex giảng: “bồng bềnh • t. hoặc đg. từ gợi tả dáng chuyển động lên xuống nhẹ nhàng theo làn sóng, làn gió : thuyền bồng bềnh trên mặt nước ~ mây trôi bồng bềnh ~ “Mây trắng xốp như băng tuyết trải bồng bềnh khắp nền trời xanh sáng.” (Ngọc Giao; 1). Đn: bập bềnh, bập bồng, bềnh bồng, dập dềnh.
Nguồn Fb Hoàng Tuấn Công