“Độc lập” và “tự chủ”
admin100
2022-12-05T15:11:00-05:00
2022-12-05T15:11:00-05:00
http://nguyenduyxuan.net/kho-tri-thuc/doc-lap-va-tu-chu-11727.html
http://nguyenduyxuan.net/uploads/news/2016_08/tieng-viet-yeu-thuong.jpg
Nguyễn Duy Xuân
http://nguyenduyxuan.net/uploads/logotrong1.png
Thứ hai - 05/12/2022 15:11
“Những từ dùng sai trong tiếng Việt” là bài viết dĩ hư truyền hư, nhưng lại được không ít người tâm đắc, đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên mạng trong nhiều năm qua. Theo tìm hiểu của tôi, thì bài viết này từng được đăng trên trang của nhà văn Triệu Xuân (trieuxuan.vn) vào “Thứ sáu, 02:20 Ngày 17/01/2014”, phần tác giả ghi “Đỗ Duy Ngọc soạn theo tư liệu trên internet”, với lời chú “tác giả gửi w.w.w trieuxuan.info”.
Trong bài trước, tôi đã có bài viết bác bỏ ý kiến “sự cố là một từ vô nghĩa” của tác giả ĐDN. Sau đây, xin tiếp tục với mục từ “ĐỘC LẬP” thuộc phần 2 của bài viết, tập hợp những từ mà tác giả ĐDN cho rằng “SAI VÌ CỐ Ý SỬA NGHĨA GỐC HÁN - VIỆT”(!):
Tác giả “Những từ dùng sai trong tiếng Việt” viết:
“ĐỘC LẬP: “Độc” (獨) là “riêng một mình”, “lập” (立) là “đứng”. Vậy theo nghĩa gốc Hán - Việt, “độc lập” là “đứng riêng rẽ một mình, không đứng chung với ai cả”. Rõ ràng từ này là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Tôi thấy cụ Trần Trọng Kim, cụ Dương Quảng Hàm dùng từ “tự chủ” để thay thế từ “độc lập”. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ “độc lập” là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn ngữ của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ”. (Chỗ in đậm do HTC nhấn mạnh).
NHẬN XÉT:
Chỉ trong một đoạn ngắn, nhưng tác giả bài viết phạm tới 3 lỗi nặng:
-LỖI 1:
Không có nguyên tắc nào quy định nghĩa của từ ngữ phải luôn bám sát vào “nghĩa gốc Hán-Việt”, hay nghĩa của từng yếu tố cấu tạo từ hợp thành. Đây là điều sơ đẳng mà bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực ngôn ngữ đều biết và phải biết.
Để chứng minh cho điều đó thì có tới cả ngàn dẫn chứng. Nhưng sau đây chỉ xin đưa ra một ví dụ liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp:
Từ thâm canh 深耕, nghĩa ban đầu của nó chỉ là cày sâu. Hán ngữ đại từ điển giảng:
-“thâm canh: cày ruộng đạt tới độ sâu sáu, bảy tấc trở lên. Cày sâu có thể cải tạo đất, làm thay đổi kết cấu thổ nhưỡng, tăng độ phì trong đất, tăng năng suất cây trồng”.[深耕:耕地深度達六,七寸以上. 適當的深耕可以改良土壤結構,提高土壤肥力,增加收成].
Nghĩa của từ thâm canh phản ánh trình độ canh tác thuở xa xưa. Khi mà trồng trọt không có phân tro, không có tiến bộ về giống má,… thì sự khác biệt duy nhất chỉ có thể là “cày sâu, cuốc bẫm”, để tạo tầng canh tác tốt (Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa – tục ngữ).
Về sau, khoa học nông nghiệp phát triển, trình độ canh tác được nâng cao, thì “thâm canh” không còn được hiểu đơn giản là “cày sâu” nữa. Phương thức canh tác này được hiểu là sự đầu tư phân bón, giống mới, áp dụng kỹ thuật trên một đơn vị diện tích nhất định (không mở rộng), nhằm đạt được năng suất cao nhất.
Thế rồi không chỉ đối với cây trồng nông nghiệp mới được gọi là “thâm canh”. Những khái niệm “trồng rừng thâm canh”, “nuôi cua thâm canh”, “nuôi tôm thâm canh”…lần lượt xuất hiện. Rồi từ “quảng canh” 廣耕 cũng ra đời, không phải với nghĩa “cày rộng”, hay “cày nông”, mà chỉ phương thức canh tác mở rộng diện tích, không đầu tư chiều sâu, năng suất thấp (đối với thâm canh). Ví dụ: trồng rừng quảng canh, nuôi tôm quảng canh, trồng lúa quảng canh…
Như vậy, không thể căn cứ vào nghĩa gốc thâm canh = cày sâu, để kết luận từ này “SAI VÌ CỐ Ý SỬA NGHĨA GỐC HÁN - VIỆT” được?
-LỖI 2:
Mỗi một từ thường có nhiều nghĩa, có nghĩa gốc, nghĩa phái sinh, được sử dụng tuỳ theo ngữ cảnh. Từ độc lập 獨立 cũng vậy. Không có lý do gì để buộc nó chỉ mang một nghĩa duy nhất là “đứng riêng rẽ một mình, không đứng chung với ai cả”.
Hán ngữ đại từ điển ghi cho “độc lập” tới 6 nghĩa:
1.) Đứng đơn độc một mình (đơn độc trạm lập-單獨站立).
2.) Đứng một mình, không dựa dẫm (cô lập vô sở y bàng-孤立無所依傍).
3.) Siêu phàm, thoát tục, khác hẳn số đông (siêu phàm bạt tục, dữ chúng bất đồng-超凡拔俗,與眾不同).
4.) Tồn tại mà không dựa dẫm vào gì khác; Tự lập, không dựa dẫm vào người khác (bất y kháo kỳ tha sự vật nhi tồn tại; bất y kháo tha nhân nhi tự lập-不依靠其他事物而存在;不依靠他人而自立).
5.) Quốc gia, dân tộc hoặc chính quyền không chịu sự thống trị, chi phối của ngoại bang mà hoàn toàn tự chủ (vị quốc gia, dân tộc hoặc chính quyền bất thụ ngoại giới thống trị chi phối nhi năng hoàn toàn tự chủ địa tồn tại-謂國家, 民族或政權不受外界統治支配而能完全自主地存在).
6.) Chim một chân trong truyền thuyết thời cổ đại (cổ đại truyền thuyết trung đích nhất túc chi điểu-古代傳說中的一足之鳥).
Còn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê – Vietlex) cũng ghi nhận tới 3 nghĩa:
-độc lập • 獨立 I:
+ t. 1 tự mình tồn tại, hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác. sống độc lập từ bé ~ suy nghĩ độc lập;
+2 [nước hoặc dân tộc] có chủ quyền, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác. một đất nước độc lập, tự do.
-độc lập • 獨立 II: d. trạng thái của một nước hoặc một dân tộc có chủ quyền về chính trị, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác. nền độc lập dân tộc.”.
Như vậy, không có chuyện từ “độc lập” chỉ được hiểu một nghĩa duy nhất là “đứng riêng rẽ một mình, không đứng chung với ai cả”.
-LỖI 3:
Từ “tự chủ” không thể thay thế cho từ “độc lập”:
Có “độc lập” 獨立 thì mới có tự do, có quyền lập quốc; trong khi “tự chủ” 自主 thường bị trói buộc bởi quy chế. Giả sử các cụ Trần Trọng Kim, cụ Dương Quảng Hàm có dùng từ “tự chủ” để thay thế từ “độc lập”, cũng dễ hiểu, bởi trong hoàn cảnh nước đã mất, thì làm sao có thể dễ dàng đem chuyện “độc lập” ra để điều đình với người Pháp?
Hồng Kông có thể được Trung Quốc cho hưởng “quy chế tự chủ”, chứ “độc lập” thì đâu dễ? Và tuy được hưởng quy chế tự chủ, nhưng Hồng Kông vẫn thuộc chủ quyền của Trung Hoa Đại lục, và có thể bị hạn chế hay tước bỏ quyền tự chủ ấy bất cứ lúc nào.
Có “tự chủ” không có nghĩa là có “độc lập”, mà có “độc lập” nhưng nhược tiểu thì có thể vẫn bị ngoại bang khống chế, chi phối. Thế nên mới có thêm khái niệm độc lập tự chủ 獨立自主 là thế.
Như vậy, tác giả bài “Những từ dùng sai trong tiếng Việt” xúi quốc dân đem “độc lập” đổi lấy “tự chủ”, cho rằng “thế là rất hay”, khác nào xúi người ta dâng nước cho giặc, tự nguyện tước bỏ “độc lập tự do” để hưởng chút quy chế “tự chủ”, một kiểu “tự do trong khuôn khổ”?
Hoàng Tuấn Công/6/2021
(Nguồn tuancongthuphong.blogspot.com)