Tôi không làm thơ và cũng không phải là nhà phê bình văn học. Chỉ thích đọc thơ, chủ yếu là thơ thời kỳ trước, ít có cơ hội đọc những sáng tác gần đây.
GS Trần Văn Thọ
Nhân ngày Tết muốn nêu một thắc mắc về thơ tân hình thức, một thể thơ rất mới mà tôi chưa cảm nhận được cái hay như là thơ cũ và thơ mới.
Rất vui là trong lần về Đà Nẵng vào cuối tháng 10 năm qua, khi tôi đưa vấn đề này ra bàn với một số bạn trong buổi ăn sáng cuối tuần, tất cả sáu bạn hôm đó đều có cùng cảm nhận như tôi. Như vậy không phải chỉ có tôi mà có lẽ rất nhiều người chưa cảm nhận được cái hay của thơ tân hình thức.
Như chúng ta đều biết thơ mới ra đời vào đầu thập niên 1930. Nhiều thi sĩ muốn thoát ra khỏi những gò bó, niêm luật về số chữ số câu trong thơ cũ như ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, song thất lục bát. Bài thơ “Tình già” của Phan Khôi (đăng trên Phụ nữ Tân văn số ra ngày 10.3.1932) được xem là bài thơ đầu tiên của thể thơ mới mặc dù trước đó đã có một số biểu hiện ban đầu. Sau đó nhiều thi nhân tích cực hưởng ứng. Nhiều bài thơ mới của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Thâm Tâm, Đoàn Phú Tứ, Đinh Hùng... xuất hiện và làm nên một trào lưu thơ ca sống mãi với thời gian.
Cho đến khi viết bài này tôi không rõ từ khi nào xuất hiện một thể thơ rất lạ (đối với tôi). Tôi tự đặt tên là “thơ rất mới” để phân biệt với thơ mới. Trong buổi gặp với các bạn ở Đà Nẵng nói trên, lần đầu tiên tôi mới biết tên gọi chính thức của thơ rất mới này là thơ “tân hình thức”. Sau đó tìm hiểu thêm biết được “tân hình thức” được dịch từ tiếng Anh “New Formalism”, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành từ thập niên 1980 và du nhập vào Việt Nam khoảng 25 năm trước.
Người du nhập thể thơ này vào Việt Nam được cho là nhà thơ Khế Iêm, sống tại Mỹ. Năm 2014, Tạp chí Sông Hương có biên tập và phát hành tập sách Thơ Tân hình thức Việt-tiếp nhận và sáng tạo (Nhà xuất bản Thuận Hóa). Đọc bài điểm sách khá chi tiết của Nguyễn Bội Nhiên trên báo Quảng Trị Online (17.8.2014) có thể hiểu đặc tính của thơ tân hình thức và khuynh hướng sáng tác của các nhà thơ.
Chẳng hạn đây là một trong những câu tổng kết tiêu biểu của người điểm sách: “Trên quan điểm thơ rất đỗi đời thường, thơ trở về đời sống thực tại nên thơ không có vần điệu để mỗi bài thơ là một câu chuyện cuộc sống, tính nhạc của thơ được tạo nên từ nhịp điệu của sự đọc, tính truyện chủ trương thi pháp đời thường khiến mỗi bài thơ là một câu chuyện đời thường” (tôi nhấn mạnh).
Tuy chưa đọc nhiều nhưng những bài thơ theo thể tân hình thức mà tôi đã đọc đúng là không có vần điệu. Tôi có nhận xét là thơ tân hình thức là thể thơ rất đặc biệt, câu chữ hình như không theo một quy luật nào, có câu một vài chữ, có câu dài, nếu không xuống dòng thì có thể đọc như văn xuôi.
Thơ mới cũng có các tính chất đó nhưng thơ tân hình thức thì cực đoan hơn, nhiều câu chỉ có một chữ hay một vài chữ, đặc biệt là không có âm điệu như thơ mới và vì vậy rất khó nhớ, khó thuộc.
Để minh họa thế nào là một bài thơ theo thể tân hình thức, ta thử đọc một bài thơ của Nguyễn Duy. Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tôi rất thích đọc, trong thơ anh gói ghém nhiều tư tưởng nhân văn, có ý nghĩa phổ quát như những câu thơ tưởng niệm vua Duy Tân: “Mặt trời vẫn mọc đằng đông/lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người/bao triều vua phế đi rồi/người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”.
Nhưng trong thơ Nguyễn Duy hay thơ của nhiều người khác tôi vẫn thích loại thơ cũ hoặc thơ mới, còn thơ tân hình thức thì... thú thật là khó hiểu, khó nhớ. Chẳng hạn thử đọc một bài thơ tân hình thức của Nguyễn Duy và so sánh với một bài theo thể thơ cũ cũng của cùng tác giả.
Nguyễn Duy sang thăm Nhật Bản vào mùa xuân 2018, tức cảnh sinh tình anh làm hai bài thơ, một nói về hoa anh đào, theo thể thơ tân hình thức, và một nói về núi Phú Sĩ theo thể lục bát (đăng trên báo mạng Diễn Đàn, 6.4.2018):
ANH ĐÀO
Lộng lẫy một loài hoa
hoa...hoa...hoa...
không lá
Răm rắp nở
răm rắp tàn
Đồng loạt bung
đồng loạt rụng
Lấm tấm xác hoa lung linh thảm cỏ
cánh hoa sà xuống chén sa-kê
người trang nhã nhấm rượu hoa tri kỷ
Màu hoa đào rợp trời
xác đào hoa ngợp đất
Ấy là lúc anh đào linh thiêng nhất
sinh
và
tử
hết mình
Nghe lòng ta réo gọi
ơi anh đào
anh đào
hoa thi sĩ thắm tươi hồn võ đạo.
NÚI PHÚ SĨ
Một mây một gió một màu
một hiên ngang ngẩng mái đầu tuyết phơi
Một ngôi riêng một mé trời
một ta sừng sững muôn đời. Một ta...
(Fuji, 2.4.2018).
Về sự tự do trong số chữ hoặc về đặc tính thiếu âm điệu, vần điệu, thì bài thơ Anh Đào chưa hẳn là bài tiêu biểu của thể thơ tân hình thức. Nhưng có thể nói bài thơ này gần với tân hình thức hơn là thơ mới.
Cả hai bài thơ của Nguyễn Duy đều hay về ý tưởng, đầy hình ảnh đẹp với nhận xét tinh tế của tác giả. Nhưng tôi thích bài lục bát hơn. Bài theo thể thơ gần như tân hình thức thì chưa quen, và khó nhớ.
Tôi nhớ có đọc ở đâu đó, nhà thơ Nguyên Sa cho rằng một câu thơ hoặc một bài thơ được cho là hay khi muốn giải thích ý nghĩa của nó người ta phải viết ra cả nửa trang hoặc một trang giấy.
Theo định nghĩa đó thì bất cứ thể thơ nào, cũ, mới hay tân hình thức đều có thể có những câu, những bài thơ hay. Nhưng theo tôi thì định nghĩa đó chưa đủ. Một điều kiện nữa là thơ phải có âm điệu, có vần điệu nếu không thì bất cứ một câu văn có hàm súc, có ý nghĩa sâu xa đều trở thành câu thơ hay. Chẳng hạn câu nói nổi tiếng của B. Pascal: “Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ” là một câu nói hay, hàm súc tư tưởng sâu xa, và để giải thích phải viết ra cả nửa trang giấy. Nhưng đó không phải là câu thơ.
Tôi nghĩ nhà thơ Nguyên Sa đưa ra định nghĩa trên không phải là phủ nhận thơ cần có âm điệu, vần điệu mà âm điệu, vần điệu là tiền đề của thơ (không cần phải nói đến), và trên cơ sở đó muốn thơ trở thành hay thì phải theo định nghĩa của ông.
Trong bài thơ "Đêm thu nghe quạ kêu" của Quách Tấn có hai câu rất hay:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Hai câu thơ này hay theo tiêu chuẩn của Nguyên Sa vì phải giải thích cả nửa trang giấy cho những độc giả chưa đọc bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế hoặc/và chưa biết câu chuyện Tào Tháo mơ màng ngắm trăng ngâm thơ giữa dòng Trường Giang trước khi trận Xích Bích mở màn.
Mấy câu thơ này khéo dùng những điển tích phù hợp, gợi trí tưởng tượng với cảm giác lâng lâng của một đêm thu có trăng, có sương mờ mờ ảo ảo. Hai câu thơ này không phải chỉ hay vì ý thơ mà còn có âm điệu của thơ.
Thơ sẽ đọng lại gì khi không còn vần điệu?
Đúng là thường thì thơ có ý sâu xa thì mới hay. Nhưng theo tôi có nhiều câu thơ ý sâu xa nhưng người đọc cảm nhận được ngay, thấy rất thi vị và không cần phải giải thích nhiều, không cần viết ra cả trang giấy mới nói hết ý nghĩa mà vẫn hay.
Câu thơ hay còn nhờ âm điệu, cách gieo vần, cách dùng chữ bóng bẩy, gợi mở trí tưởng tượng, và nhất là gợi cảm, thấm sâu vào tâm hồn người đọc. Thí dụ thì rất nhiều.
Chẳng hạn hai câu thơ của Hoài Khanh mà tôi gặp hồi còn học năm cuối trung học phổ thông, đọc thấy lòng bâng khuâng, đúng với tâm trạng đang lo nghĩ về một tương lai bất định:
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian.
Cũng suy tư về thời gian, sau này đọc hai câu thơ cũng rất hay của Nhã Ca nói lên tâm trạng nuối tiếc tuổi xuân qua đi của người con gái:
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
Một cách tỏ tình gián tiếp bằng hình ảnh rất đẹp mà dễ hiểu cũng dệt thành những câu thơ hay như trong thơ Nguyễn Bính:
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió, bám đầy áo em.
Ngẫu nhiên các ví dụ nêu trên đều thuộc thể loại thơ cũ. Trong thơ mới dĩ nhiên ta cũng bắt gặp nhiều câu thơ, nhiều bài thơ hay. Chẳng hạn “Đường vào tình sử” của Đinh Hùng theo tôi là một bài thơ hay. Đây là bài thơ tự do biến hóa số chữ số câu, có nhiều đoạn đọc như văn xuôi mà vẫn hay, vẫn rất thơ:
Phơi phới thuyền ta vượt bến,
Từ đêm hồng thủy ra đi.
Lòng ta dao cắt
Chia đôi
Biên thùy,
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
...
Một bài thơ
Có tiếng thở dài đôi hồn tình tự,
Vần điệu dìu nhau đi trong giấc mơ,
Sông núi trập trùng lượn theo nét chữ,
Những chữ thương yêu,
Những chữ đợi chờ,
Đẹp như
Dáng em e lệ chiều xưa.
....
Lấy một bài thơ mới khác, cũng là bài thơ hay (trích một đoạn):
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Không em chín đỏ trái sầu (Cung Trầm Tưởng)
Hoặc một đoạn trong bài “Mầu tím hoa sim” nổi tiếng của Hữu Loan, cũng là bài thơ hay theo thể thơ mới:
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Ngoài ý tưởng hay, điểm chung của các bài thơ hay theo thể thơ mới là có âm điệu, có vần điệu. Đúng như định nghĩa của Phan Khôi về thơ mới: “những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết” (Theo Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân).
Như vậy điểm chung của thơ cũ và thơ mới là có âm điệu, có vần điệu dù thơ mới có thể ít khắt khe hơn. Ngược lại, thơ theo thể tân hình thức thì hầu như không có tính chất này nên khó nhớ, khó thuộc.
Để kết thúc bài viết của người ngoại đạo, tôi xin nêu ra hai vấn đề hoặc hai thắc mắc.
Thứ nhất, thể thơ tân hình thức dù có những ưu điểm như đã nói, có thể được đón nhận tích cực từ quan điểm của người đọc thơ, người yêu thơ không, nhất là đối với những người quan niệm thơ phải có vần điệu? Về điểm này tôi muốn nói thêm là bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ, bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư hoặc bài Tây Tiến của Quang Dũng chẳng hạn nếu được sáng tác bằng thể thơ tân hình thức thì ngày nay có bao nhiêu người nhớ và thuộc?
Thứ nữa, khoảng 90 năm trước, khi thơ mới xuất hiện đã có cuộc tranh luận sôi nổi kéo dài nhiều năm (giữa thơ cũ và thơ mới), nhất là trong năm 1935 mà Thi Nhân Việt Nam gọi là năm “đại náo trong làng thơ”, và một năm sau đó thì thơ mới “toàn thắng”.
So với bối cảnh và tình hình của thơ mới gần một thế kỷ trước (tranh luận chỉ có 4-5 năm là ngã ngũ) thì việc xuất hiện của thơ tân hình thức ngày nay, dù đã 25 năm, có vẻ chưa nổi bật, chưa được bàn luận hay trở thành đề tài tranh luận sôi nổi (có thể đã có bàn luận giữa những người làm thơ chứ chưa lan ra đại chúng, chưa có ý kiến của người đọc, người thưởng thức thơ).
Có thể giải thích vấn đề này như thế nào? Nói thêm, thời trước, thơ mới đã dành ưu thế ngay trong cuộc tranh luận là vì liên tiếp xuất hiện những bài thơ rất hay (nhất là của Thế Lữ, người không phát biểu trong cuộc tranh luận, chỉ chứng minh bằng thơ của mình) làm rung cảm trái tim người đọc.
Ngày nay, thơ tân hình thức cũng cần xuất hiện những bài thơ được đông đảo độc giả đón nhận để có vị trí xứng đáng trên thi đàn.
Ngày Tết, trò chuyện về thơ giữa những người yêu thơ dù ngoại đạo cũng là một thú vui văn hóa. Từ ý nghĩ đó tôi mạo muội viết mấy dòng này.
Tokyo, đầu Xuân Ất Tỵ 2025 GS.. Trần Văn Thọ Nguồn Báo Lao động