Phạm Quỳnh và Nam Phong

Chủ nhật - 24/12/2017 12:04
Phạm Quỳnh làm Nam Phong (là chủ nhiệm và chủ bút) từ 1917 đến 1932, trong 15 năm, từ tuổi 25 đến 40. Nam Phong sau đó được giao cho Nguyễn Tiến Lãng (con rể Phạm Quỳnh) và sống thêm hai năm nữa.


Phạm Quỳnh sinh 1892 (có tài liệu nói là 1893), mất 1945.

Nam Phong tạp chí ra đời 1917, chấm dứt 1934.

Phạm Quỳnh làm Nam Phong (là chủ nhiệm và chủ bút) từ 1917 đến 1932, trong 15 năm, từ tuổi 25 đến 40. Nam Phong sau đó được giao cho Nguyễn Tiến Lãng (con rể Phạm Quỳnh) và sống thêm hai năm nữa.

“Suốt trong 17 năm tồn tại, Nam Phong đã đăng 1391 bài tiếng Việt, 414 bài tiếng Pháp, không kể phần Hán văn, tổng cộng đã công bố gần hai nghìn bài. Trong gần hai nghìn bài này đã có 123 tác giả viết tiếng Việt, 41 người viết tiếng Pháp… Người viết nhiều nhất là Phạm Quỳnh(còn ký bút danh Thượng Chi, Hồng Nhân) với 458 bài tiếng Việt và 33 bài tiếng Pháp (chưa kể chữ Hán), chiếm khoảng trên dưới 30% tổng số bài đã đăng trên Nam Phong, số bài còn lại khoảng 50-60% là do 162 người viết, trung bình cứ một tuần trong 17 năm tồn tại của Nam Phong, bên cạnh các công việc khác, Phạm Quỳnh viết được và đăng được một bài.”[1]

Bởi vậy, ngay từ đương thời tạp chí này, Phạm Quỳnh đã được coi là linh hồn của Nam Phong. Nói tới Nam Phong là nói tới Phạm Quỳnh và ngược lại. “Cái văn nghiệp của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam Phong.” (Dương Quảng Hàm).

Nhưng phần lớn thời gian trong một trăm năm qua, việc đọc Nam Phongđể xét Phạm Quỳnh và việc xét Phạm Quỳnh để đọc Nam Phong là cả một quá trình vật lộn trong nhận thức và học thuật của cả một thời kỳ. Năm 1992, nhân dịp Nam Phong tròn 75 năm ra đời và 100 năm sinh Phạm Quỳnh, Gs Nguyễn Huệ Chi khi ấy đang là Trưởng Ban Văn học Việt Nam cổ cận đại của Viện Văn học đã tiến hành chuẩn bị một cuộc tọa đàm tại Ban. Tôi được ông đặt viết bài về sự đánh giá đối với Phạm Quỳnh trước nay. Bài tôi cũng như bài một số người khác đã được viết. Nhưng cuộc tọa đàm đó đã không diễn ra.

Vậy là đã một phần tư thế kỷ trôi qua. Đến năm nay Phạm Quỳnh đã 125 năm sinh và Nam Phong 100 năm ra đời. Tôi xin đưa lại bài viết của mình từ 25 năm trước về việc đánh giá Phạm Quỳnh liên quan đến Nam Phong để hầu quý vị hôm nay.

A.      ĐÁNH GIÁ PHỦ NHẬN

Sự đánh giá này chủ yếu xét theo lập trường chính trị. Phạm Quỳnh bị quy kết phản động về mặt chính trị nên mọi hoạt động văn hóa văn học của ông đều bị coi là phục vụ mục đích chính trị của chính quyền thực dân, không có giá trị và tác dụng gì. Nam Phong cũng bị coi là phản động và có hại.

1. Ngô Đức Kế - Huỳnh Thúc Kháng

Mọi người đều biết cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Ngô Kế Đức và Phạm Quỳnh xung quanh vấn đề Truyện Kiều. Tháng 8/ 1924 Phạm Quỳnh cùng Hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức lễ giỗ thi hào dân tộc Nguyễn Du tại Hà Nội. Trong cuộc đó ông đã có bài diễn thuyết đề cao hết mức Nguyễn Du và Truyện Kiều, dấy lên phong trào sùng bái Kiều, coi đó là  “quốc hoa, quốc túy, quốc hồn” của nước Nam và cho rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Bài diễn thuyết đã đăng Nam Phong số 86 (8/1924). Ngô Đức Kế thấy ở vụ này một cái tà thuyết, mà theo ông “ tà thuyết lưu hành thì nhân tâm thế đạo phải hư, mà vận nước cũng theo tà thuyết mà đắm mất”. Đứng trên lập trường dân tộc, ái quốc, ông Kế bác bỏ cái việc học Kiều do ông Quỳnh đề xướng (và luôn thể bài bác, mạt sát cả Truyện Kiều) cho đó là một việc làm hại dân hại nước. Tội lỗi là ở cả Phạm Quỳnh mà ra: “Một anh giả dối, lóp lép, đứng đầu sùng bái Kiều, mà một bọn u mê hờ hững gào hơi rán sức để họa theo, còn một lớp người chỉ nghe lỏm nhìn mồm thì vỗ tay tán thưởng, khiến người bịt tai bưng mũi, phải nhức đầu long óc vì những tiếng to “Quốc văn!!! Kim Vân Kiều!!! Nguyễn Du!!!”. Phạm Quỳnh trong con mắt của Ngô Đức Kế là loại thế này: “Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng là bao, mới lom lem những học thuyết ông Mạnh, ông Lư, bập bẹ những cách ngôn họ Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập làm một đấng văn hào, tự xưng khai hóa quốc dân, mà không ngó lại mình đã khai hoá hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằng, tán nhảm, nói bậy nói càn không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa”. Đây thực chất họ Ngô đã nhìn con người trí thức họ Phạm qua con mắt chính trị, đạo đức. Họ Ngô phê phán âm mưu chính trị của họ Phạm ẩn dưới chiêu bài đề cao Truyện Kiều và Nguyễn Du có thể là cần thiết về phương diện chính trị- tư tưởng thời bấy giờ. Nhưng Phạm Quỳnh có âm mưu chính trị (hay thực hiện âm mưu chính trị ấy của người khác) là một chuyện, mà Phạm Quỳnh có học lực đến đâu là một chuyện khác, không thể bảo là Phạm Quỳnh dốt nên mới ra nông nỗi này. Ngô Đức Kế vẫn là theo cách nghĩ chính trị khi viết: “Cái xã hội Âu chẳng ra Âu, Hán chẳng ra Hán, há không phải bởi cái nhân vật giả dối Âu chẳng ra Âu, Hán chẳng ra Hán ấy múa bút khua lưỡi mà gây nên ư?”. Ý này gần với ý của Đặng Thái Mai một người cũng có thái độ nghiêm khắc đến nghiệt ngã đối với Phạm Quỳnh do thiên về mặt đánh giá chính trị, nêu lên vào những năm 1960 mà chúng tôi sẽ nói đến sau. Về phương diện này Huỳnh Thúc Kháng tỏ ra đúng hơn Ngô Đức Kế, dù ông Huỳnh cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm tư tưởng của ông Ngô. Trước bài báo của Phạm Quỳnh mà ông coi là đầy những lời xúc phạm, thóa mạ đến nhà chí sĩ bạn mình vừa nằm xuống, Huỳnh Thúc Kháng đã viết bài “chiêu tuyết”cho bạn, phê lại Phạm Quỳnh về mặt đạo đức. Ông Huỳnh viết: “Những lời nói trên mà xuất từ một người văn sĩ xằng nào thì không đủ trách; song tự lỗ miệng và ngòi bút một người tân nhân vật, nghiễm nhiên tự nhận cái gánh gây dựng một nền văn hóa mới cho nước nhà, lại chủ trương một cái cơ quan ngôn luận trong nước mười mấy năm nay, mà có lời thô lỗ tỏ cái tâm sự hiềm riêng mà nói xấu cho một người thiên cổ, thì không thể bỏ qua được”. Cố nhiên Huỳnh Thúc Kháng, cũng như Ngô Đức Kế, từ cái vụ Kiều này đã coi Phạm Quỳnh là nhân vật có hại về mặt chính trị cho nước nhà thì không còn gì đáng bàn đến nữa. Do đó cuộc tranh luận của hai ông với Phạm Quỳnh có thể gây được tiếng vang, có tác dụng chính trị lớn ở đương thời, nhưng vẫn có phần bất cập, không thỏa đáng về mặt văn hóa với đối thủ và nhất là với tuyệt tác văn chương của thi hào dân tộc. Cũng vì lẽ đó nên cuộc tranh luận năm 1924 lại gây tranh luận mỗi khi đụng đến trường hợp Phạm Quỳnh.

2. Cuộc trao đổi năm 1960 về cuộc tranh luận năm 1924

Vào đầu những năm 1960 trên tập san Nghiên Cứu Văn Học của Viện Văn Học một số nhà nghiên cứu văn học đã quay lại tìm hiểu thực chất cuộc tranh luậnTruyện Kiều, cũng tức là trở lại việc đánh giá Phạm Quỳnh trên lịch sử văn học. Vấn đề được xới lên từ một nhận định của các tác giả nhóm Lê Quí Đôn trong sách Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, xuất bản năm 1957, như sau: “Cuộc tranh luận chung quanh Truyện Kiều là một sự kiện quan trọng trong lịch sử phê bình nước ta. Phe chống Kiều gồm có các nhà ái quốc Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, và một số nhà nho bảo thủ. Họ nhận xét Truyện Kiều như là nhận xét một quyển sách luân lý. Tuy vậy họ đã nắm chắc chân lý khi họ vạch dã tâm của bọn cầm đầu phong trào sùng bái Kiều và tác hại của một phong trào như thế đối với thanh niên. Phe tán dương Kiều đông hơn, do Phạm Quỳnh cầm đầu thì nặng về tầm chương trích cú. Do thái độ đối với cuộc sống mới hơn, nghĩa là khoan dung rộng rãi đối với cá nhân hơn, do thông cảm với yêu cầu tình cảm của con người, họ tán thành nội dung Truyện Kiều từ đầu chí cuối nhưng tán thành theo cảm tính chứ không có lý luận gì. Và họ để công sức vào sự tìm hiểu kỹ thuật. Về phương diện này, họ đã phát giác được nhiều điều đáng kể” (tr.199). Một nhận định vẫn khắt khe về chính trị nhưng có phần thể tất hơn về mặt văn học đối với Phạm Quỳnh. Cũng có thể coi đó như một sự dè dặt mở ra cách nhìn khác đối với ông chủ Nam Phong. Nhưng nhận định đó đã bị phản bác và phê phán gay gắt kèm theo những lời buộc tội Phạm Quỳnh và Nam Phong nặng nề hơn.

2.1. Nguyễn Đình Chú trong bài “Thực chất cuộc đấu tranh giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề Truyện Kiều” (NCVH, số 12/1960) đã phân tích tình hình chính trị nước ta thời ấy, tìm hiểu bản chất chính trị của đôi bên để đi đến khẳng định: “Cuộc đấu tranh giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề Truyện Kiều, thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối chính trị trên lĩnh vực học thuật. Sự thắng bại trong cuộc đấu tranh đó là do hai tính chất chính nghĩa và phi nghĩa của hai đường lối chính trị quyết định”. Phạm Quỳnh là thuộc phe chính trị phi nghĩa mà Nguyễn Đình Chú coi là “tên mật thám đắc lực cho đế quốc Pháp từ năm 1907 lúc hắn còn mang lốt một “thầy thông ngôn thông minh, có tân học” đến dạy chữ Pháp cho trường Đông Kinh Nghĩa Thục”, là “tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lĩnh vực văn hoá” và không thể xếp Phạm Quỳnh vào loại nhà văn có mâu thuẫn giữa thế giới quan và sáng tác “vì lẽ trước hết, hắn không phải là nhà sáng tác mà chỉ là “nhà nghiên cứu, học thuật”, hơn nữa hắn làm nghiên cứu học thuật với đầy đủ ý thức chính trị phản động của hắn. Cho nên khi đánh giá cái nội dung “ học thuật” của hắn, cần phải gắn cái nội dung “học thuật” đó với bản chất chính trị phản quốc của hắn”. Theo Nguyễn Đình Chú, “Dù trong việc tán dương Truyện Kiều, Phạm Quỳnh ngoài ý muốn chủ quan của mình, có để lại một đôi chút tài liệu nào đó mà ngày nay chúng ta vẫn còn có thể khai thác được, thì điều đó cũng không cho phép chúng ta nói như thế được” (tức là nói như nhóm Lê Quí Đôn). Phạm Quỳnh trong bài trả lời Ngô Đức Kế không nhận mình là nhà chính trị, mà là nhà văn, nhà học vấn, thực hiện chủ nghĩa quốc gia về phương diện văn hóa, chứ chưa đi sang phương diện chính trị. Nguyễn Đình Chú khẳng định rõ ràng kiên quyết: “Xưa nay bọn tay sai chính trị của thực dân Pháp thường dùng hai thủ đoạn: một là nhận rằng mình có làm chính trị nhưng cố khoác cho mình một cái áo quốc gia, một cái áo cách mạng giả hiệu; hai là chối rằng mình không làm chinh trị, chỉ làm chuyện khác. Văn chương, học thuật là một trong những cái “chuyện khác” thường được chúng lợi dụng. Phạm Quỳnh, trước khi chính thức tung ra cái chủ nghĩa lập hiến phản động, trước khi làm thượng thư Bộ Học ở triều đình Huế đã sử dụng cái ngón thứ hai này.”

2.2. Vũ Ngọc Khánh tham gia thảo luận với bài “Câu chuyện đấu tranh chống Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề Truyện Kiều” (NCVH, số 8/1961). Theo ông, thực chất cuộc đấu tranh giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh về vấn đề Truyện Kiều là “đấu tranh chính trị giữa hai luồng tư tưởng cách mạng và phản cách mạng”. Ông cho nhóm Lê Quí Đôn viết về vấn đề này “đã lầm khi đặt hai vấn đề chính trị và văn hoá song song với nhau, đã phạm một thiếu sót là chưa thấy vấn đề cho đúng mức”. Từ đó vô hình trung nhóm Lê Quí Đôn “đã đề cao Phạm Quỳnh, đã cho hành động của Phạm Quỳnh dù sao cũng phù hợp với bước tiến của xã hội, trong khi thực chất của hành động ấy chỉ là kéo lùi xã hội ta lại, giữ nó trong tình trạng “biết bao lớp thanh niên say mê sóng sắc, chìm nổi bể tình, dứt cả nền nếp gia đình, trật tự xã hội mà theo lối ham mê của mình” (nên hiểu thêm: quên nhiệm vụ đối với quốc gia, quên kẻ thù dân tộc)”. Vũ Ngọc Khánh yêu cầu, muốn hiểu rõ thực chất cuộc đấu tranh này, muốn phê phán đúng nhân vật trong đó thì “phải lấy tiêu chuẩn về nhiệm vụ cách mạng hồi bấy giờ mà đối chiếu”.

2.3. Nguyễn Văn Hoànviết bài “Sơ kết cuộc trao đổi ý kiến về vấn đề tranh luận “Truyện Kiều” năm 1924” (NCVH, số 6/1962). Ông cho biết bài bút chiến của Ngô Đức Kế có tác dụng rất lớn: “Cả một phong trào tán dương Truyện Kiều đương ở tột độ say sưa nhiệt liệt, bỗng nhiên xẹp hẳn xuống. Những người bị Quỳnh mê hoặc, vụt bừng tỉnh. Còn Phạm Quỳnh trước đó ồn ào, bắng nhắng bao nhiêu thì bây giờ lập tức câm miệng hến! Bộ mặt chí sĩ, ái quốc, ái quần của y rơi xuống một cách thảm hại! Uy tín của y bị sứt mẻ một cách đau đớn!” (Điều này không được khảo sát cụ thể). Tìm hiểu quan điểm văn học của hai nhà chí sĩ họ Ngô, họ Huỳnh trong cuộc tranh luận này, Nguyễn Văn Hoàn chỉ ra những chỗ hạn chế, lạc hậu của hai ông nhưng khẳng định ngay đó “tuyệt đối không phải là chỗ sở đắc của Phạm Quỳnh”. Theo ông, “Phạm Quỳnh là một tên lính tập của đế quốc trên trận địa mới. Và việc đề cao Truyện Kiều của y là một thủ đoạn chính trị quỷ quyệt, hòng lợi dụng lòng yêu mến đặc biệt của nhân dân ta đối với thi tài của Nguyễn Du, để đánh lạc hướng hoạt động của thanh niên trí thức, làm cho họ xa lìa nhiệm vụ ái quốc”. Nguyễn Văn Hoàn cho là Phạm Quỳnh chỉ lợi dụng Truyện Kiều để làm chính trị, chứ không có hiểu biết gì mới về nội dung, khám phá gì hay về nghệ thuật của kiệt tác này. Phê phán nhận định của nhóm Lê Quí Đôn, ông cho sai lầm là ở chỗ đã rơi vào “quan điểm tách rời văn hóa và chính trị”.

Như vậy: Phạm Quỳnh là người làm chính trị, văn học chỉ là công cụ, phương tiện để đạt mục đích chính trị; Phạm Quỳnh là nhà chính trị làm văn học chứ không phải ngược lại. Trong cuộc tranh luận này là thế, mà cả cuộc đời cũng thế. Cách đánh giá thuần chính trị này cần nhưng chưa đủ. Cần đọc kỹ vào các bài viết của Phạm Quỳnh về Truyện Kiều , nhất là các bài viết về quốc văn quốc ngữ để thấy dù thực là có âm mưu chính trị gì đó, nhưng Phạm Quỳnh cũng thực là có suy nghĩ về phương diện văn hoá của vấn đề. Cái câu “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” trong bài diễn văn Phạm Quỳnh đọc kỷ niệm Nguyễn Du năm 1924 thường bị tách riêng để dễ  bề phê phán. Nhưng phải đặt câu đó vào hệ thống cùng một bài khác Phạm Quỳnh viết về Truyện Kiều đăng Nam Phong số 30 năm 1919 thì mới hiểu đầy đủ, chính xác hơn. Trong bài này, ở mục hai - Lịch sử tác giả, Phạm Quỳnh đề cao Nguyễn Du đáng lưu danh thiên cổ vì đã lưu lại cho quốc văn một tác phẩm bất hủ; từ đó ông khuyên nên đổi lại lý tưởng xưa mà đặt lập ngôn lên trước lập đức, lập công. Ông viết: “Lập ngôn chẳng là đem cuộc sinh tồn hữu hạn của một đời người mà đổ lộn vào cuộc sinh tồn vô hạn của một nòi giống, khiến cho mình nhờ nòi giống mà lưu danh mãi mãi, nòi giống cũng nhờ mình mà sống được vô cùng dư? Bao giờ trên bán đảo Đông Dương này còn có người An Nam ở, người An Nam còn biết nói tiếng An Nam, thì Truyện Kiều còn có người đọc, Truyện Kiều còn có người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong dòng máu đất Việt Nam không bao giờ mất được. Ôi! Linh hồn bất diệt, linh hồn bất diệt là nghĩa thế nào? <...>. Thiết nghĩ đối với nhà thơ, nhà văn thời linh hồn bất diệt tức là cái công trước tác của mình; nếu công ấy đáng giá thời linh hồn mình tất cùng với núi sông, cùng với nòi giống lưu truyền mãi mãi, tưởng cũng có thể gọi là bất diệt được, vì người ta ai cũng là kết quả  của một giống, giống mình còn mình cũng còn, mình với giống mình là một, còn kế trường sinh nào hơn nữa?...”. Có thể nghĩ đây là một sự đánh lạc hướng thanh niên trí thức khỏi đi vào hoạt động tranh đấu để lôi kéo họ vào con đường văn chương, nhưng nội dung điều nói trên đâu có sai. Kết thúc bài Phạm Quỳnh viết: “Những văn sĩ có tài xưa nay kết cấu ra một truyện gì cũng là tự diễn tâm sự một mình mà thôi, nhưng tâm sự ấy thiết tha thâm trầm, diễn ra được tức là diễn được cái nỗi lòng u âm sầu khổ của cả mọi người biết thương, biết nghĩ ở đời vậy. Cho nên người tacòn có cảm tình, có tư tưởng, thời đọc Truyện Kiều còn cảm động mãi, và tiếng An Nam còn có người nói, người học thời những lời ăn tiếng nói của cô Kiều còn phảng phất bên tai người nước Nam mãi mãi vậy”[2]. Điều này cũng là đúng. Trong hệ thống văn cảnh đó chúng tôi thấy cụ Vương Hồng Sến, một học giả miền Nam đã hiểu đúng ý Phạm Quỳnh. Khi được hỏi về câu: “Truyện kiều còn tiếng ta còn...”, cụ đáp: “Câu này chỉ có nghĩa là tiếng nói của mình chải chuốt hay ho được như Kiều thì đạt tới trình độ tương đối rồi và tiếng của ta mà mất, để các tiếng ngoại quốc xâm nhập tức là tới lúc nước mất. “Tiếng nói là chìa khóa mở bất kỳ cánh cửa nào”[3].

Bài viết về Truyện Kiều năm 1919 của Phạm Quỳnh  là  một bài nghiên cứu mà ông “phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn học Thái Tâymới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của một nền tuyệt tác trong quốc văn An Nam ta”. Và quả ông đã tìm tòi, phát hiện được một số điểm đáng chú ý về cả nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều chứ không phải “kỳ thực cũng chỉ tán suông nhiều hơn là đi vào phân tích cụ thể” như nhà nghiên cứu trên kia đã nói. Một điều lý thú là chúng tôi tìm thấy có nhiều chỗ tương đồng ý tưởng giữa bài này của Phạm Quỳnh (1919) và bài  “Nguyễn Du, một  trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn” của Hoài Thanh (1965). Xin dẫn ra làm thí dụ.

- Phạm Quỳnh: “Xét trong Truyện Kiều lời văn rất luyện mà ý tứ rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra”[4]. Hoài Thanh: “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt tý gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung”[5].

- Phạm Quỳnh: “Cái ngụ ý trong Truyện Kiều ấy tức là tiếng đàn của cô Kiều, tiếng não nùng ai oán, suốt truyện không đâu là không như văng vẳng nghe thấy bên tai...” (Sđd, tr.130). Hoài Thanh: “Dựng lên một con người, một cuộc đời như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề của thời đại. Lời phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương. Một tiếng kêu não nùng đau đớn, suốt trong quyển truyện không lúc nào không văng vẳng bên tai” (Sđd, tr.149).

- Phạm Quỳnh: “Vẽ người đến thế là đã khéo lắm, nhưng đó là cái lối vẽ chính thức, còn lối vẽ phá bút, chỉ một vài câu, dăm ba chữ mà hình dung được cả nhân cách một người, như đánh dấu đến thiên cổ không bao giờ sai được... Mã Giám Sinh rõ ra anh lái buôn người làm ra mặt văn nhân đi kén vợ, Tú Bà thật là mụ mẹ giầu đáo để tai ác, Sở Khanh là thằng sỏ lá làm mặt hào hiệp” (Sđd, tr.136). Hoài Thanh: “Đối với bọn nhà chứa, ngòi bút Nguyễn Du không tò mò, Nguyễn Du ngại bới ra những gì quá dơ dáy, Nguyễn Du chỉ ghi vội vài nét. Nhưng chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhô nhúc dưới ngòi bút Nguyễn Du... Hơn nữa, Nguyễn Du đã thấu tận trong ruột chúng nó. Nếu không, không thể nào tóm đúng được thần thái gian tà của chúng như vậy.” (Sđd, tr. 160-161).

- Phạm Quỳnh: “Chỗ nào lời văn cũng là in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy” (Sđd, tr.129). Hoài Thanh: “Cuộc đời diễn ra muôn màu, muôn vẻ... nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Du thì đều dựng lên như thật, khiến bao nhiêu người xưa nay đọc Truyện Kiều, nghe Truyện Kiều, mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau mà không mấy khi không tìm được một ít câu nói đúng những điều mình muốn nói” (Sđd, tr.163).

- Phạm Quỳnh: “Nói tóm lại thời trong Truyện Kiều thật là có đủ các lối văn chương, mà lối nào cũng tới cực điểm, mỗi lối một vẻ, mà lối nào cũng là “mười phân vẹn mười” vậy” (Sđd, tr.141). Hoài Thanh: “Chúng ta có thể nói rất nhiều về các loại văn trong Truyện Kiều, văn kể chuyện, văn gợi cảnh, dựng người, văn tự tình và cả văn kịch, văn đối thoại” (Sđd, tr.164).

Và cuối cùng, ngôn ngữ của Truyện Kiều, cái điểm Phạm Quỳnh bị công kích mạnh nhất, người trước người sau vẫn gặp gỡ tương đồng. Phạm Quỳnh: “Lạ thay, tiếng An Nam ta nhiều người chê là nghèo nàn non nớt, thế mà Truyện Kiều thời rõ ra một áng văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạng kiệt tác trong các văn chương khác mà không thẹn vậy. Đủ biết rằng tiếng ta cũng đủ phong phú, nếu khéo luyện tập cũng làm nên văn chương hay, chẳng kém gì tiếng nước khác, chứ không phải như nhiều người tưởng lầm là một thứ tiếng bán khai, đành lòng bỏ đi để đem công mà học văn chương nước khác. Lại lạ nữa là trước Truyện Kiều không có văn nôm gì hay bằng văn Kiều mà sau Truyện Kiều cũng không có văn nào hay bằng văn Kiều, đủ biết người nước ta xưa nay vẫn khinh thường văn quốc âm không chịu tập, bỏ phí mất cái lợi khí thiên nhiêncủa Tạo Vật đã phú dữ cho người mình để mở mang cho giống nòi được tiến hoá” (Sđd, tr.142). Hoài Thanh: “Nhưng chỉ xin nói vắn tắt một điều là về lời, về chữ thì chưa có một nhà văn, nhà thơ nào khác sánh kịp Nguyễn Du trong lịch sử văn học Việt Nam. Không ở đâu, tiếng nói Việt Nam lại dồi dào mà chính xác, tinh vi, trong trẻo, truyền đúng cái thần của sự vật và sự việc như ở đây” (Sđd, tr.164).

Tôi trích dẫn nhiều như vậy để thấy đây là những bậc thức giả gặp nhau. Đường đời có thể khác nhau, đường chính trị có thể ngược nhau, nhưng ai cấm đường cảm xúc không thể gần nhau, nhất đó lại là cảm xúc về áng văn chương bất tuyệt của dân tộc.

3. Đặng Thai Mai

Theo khuynh hướng đánh giá Phạm Quỳnh nặng về chính trị đến nghiêm khắc, nghiệt ngã có Đặng Thai Mai. Gần như tất cả những gì ông viết về Phạm Quỳnh và Nam Phong đều là những lời phê phán, lên án, nhiều lúc đến mức nặng nề. Thậm chí, một câu trong bài “Nền quốc văn” của Ngô Đức Kế - cái câu “Dân tộc nào còn thì ngôn ngữ văn tự còn, dân tộc nào tiêu diệt thì ngôn ngữ văn tự cũng tiêu diệt” cũng được Đặng Thai Mai cho chú thích: “Một ý kiến rất đúng để chống lại quan điểm của Phạm Quỳnh hồi đó: Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn!...”[6]. Khi viết hồi ký đời mình những đoạn nhắc đến Phạm Quỳnh, Đặng Thai Mai tuy có thừa nhận đôi điều nhưng cái chính vẫn là buộc tội, xem thường. Ông viết: “Trong lĩnh vực văn xuôi, đối với một tầng lớp trí thức có một thời gian, Phạm Quỳnh, với sự ủng hộ của chính quyền thực dân, với số lượng phát hành của tờ Nam Phong, quả tình đã chiếm được cái địa vị mà mười mấy năm sau này Phan Khôi sẽ gọi là học phiệt. Tuy nhiên đối với một vài học giả hồi này, văn xuôi của Phạm Quỳnh vẫn có phần cổ kính và cái cảm giác khó chịu hơn nữa là hình như chủ bút tờ Nam Phong đang vừa học, vừa dịch, vừa viết”[7]. Một đoạn sau: “Cụ Bùi hồi này, cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn của Thủ đô. <...>. Phạm Quỳnh thì đang làm chủ bút một tờ báo, được sự đỡ đầu mạnh mẽ của chính quyền thuộc địa. Tác giả Nam Phong viết rất khỏe, viết tiếng Pháp, viết tiếng Việt nhằm thực hiện những chỉ thị của phủ toàn quyền với một ngòi bút tài tử” (Sđd, tr.292).

Nhưng ý kiến của Đặng Thai Mai đánh giá về Phạm Quỳnh tập trung nhất là ở bài khái luận trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1925) do ông biên soạn. Phải nói ngay rằng bài đó là một công trình nghiên cứu công phu kỹ lưỡng, có nhiều giá trị, về diễn tiến chính trị - tư tưởng - văn hoá, văn học của cả giai đoạn lịch sử giao thời đầu thế kỷ rất quan trọng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Các hiện tượng văn học giai đoạn này đều được khảo sát và xét đoán trong hệ thống “đặc điểm và quá trình phát triển của văn thơ cách mạng” Việt Nam hồi đó. Phạm Quỳnh và Nam Phong được bàn đến trong chương VI của bài khái luận là chương nói về Văn học Việt nam theo đường lối của chủ nghĩa thực dân. Phân tích sự chuyển hướng đường lối văn hoá của đế quốc thống trị khi cho Phạm Quỳnh “phất phẩy cái quạt Nam Phong”, Đặng Thai Mai viết: “Tờ tạp chí hàng tháng này là một công cụ hết sức tốt của chủ nghĩa thực dân trong mười mấy năm ròng rã. <...>. Mácti, tên trùm mật thám Đông Dương hồi đó, đã trao đủ bửu bối cho Phạm Quỳnh. Cửa hàng sẵn có cả một bảng kê thức ăn khá đầy đủ. Tên đầu bếp chỉ cần áng theo đó mà xào nấu những đĩa tạp-pí-lù để cung cấp cho bạn hàng”[8]. Nhận thức một cách dứt khoát rằng “lập trường tư tưởng của Phạm Quỳnh như vậy, thì ý kiến của y nhất định cũng chỉ có thể là nguy hại cho tinh thần” (Tôi nhấn mạnh - PXN), Đặng Thai Mai nêu lên nhận định tổng quát về Phạm Quỳnh như sau: “Ông chủ bút Nam Phong, nói cho cùng, chỉ là một ông tham biện của tòa Liêm phóng, đủ tư cách để chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính sách thực dân, và truyền bá phần lạc hậu nhất (kể cả chính kiến của Charles Maurass!) trong tư tưởng nước Pháp. Phạm Quỳnh không phải là người ngu độn. Phạm Quỳnh có thể nói là  một người trí thức “thông minh” - nhưng y đã chọn một chỗ đứng trong dơ bẩn. Do đó mà những tư tưởng của y cũng không thể sạch sẽ. Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc Nam Phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một  nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người “An Nam” (Sđd, tr.124 -124). Ý kiến này được Trần Thanh Mai tán thưởng đồng ý: “Cho đến nay có nhiều người sẵn sàng phỉ nhổ vào tên tuổi Phạm Quỳnh vì tội Việt gian bán nước của y, nhưng họ vẫn còn cho rằng ít hay nhiều, hắn ta cũng có công đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc, cũng như của ngôn ngữ Việt Nam. Về vấn đề này, Đặng Thai Mai đã phân tích rất đúng như sau”[9].

                Nhận định trên đây của Đặng Thai Mai về Phạm Quỳnh có phần xác đáng, có phần khiên cưỡng, lại có phần chủ quan. Cái phần xác đáng thì đã rõ trong lịch sử, ai cũng biết và đều nhất trí. Chúng tôi muốn nói qua về cái phần khiên cưỡng và chủ quan của nhà nghiên cứu trong trường hợp này. Theo câu chữ và lập luận của Đặng Thai Mai thì phương pháp luận để kết án Phạm Quỳnh là loại suy ba đoạn: chỗ đứng dơ bẩn - tư tưởng không thể sạch sẽ - tinh thần nguy hại. Như vậy là đã đánh đồng ý đồ mục đích của việc làm, nội dung của việc làm và hiệu quả của việc làm đó; tuy giữa ba vế này có quan hệ với nhau nhưng nếu lấy động cơ để xét kết quả thì phải chăng không thể lấy kết quả để xét động cơ? Phạm Quỳnh, theo các tài liệu để lại đã được công bố, quả có ý đồ phục vụ cho chính sách thực dân, nhưng liệu có phải vai trò của Phạm Quỳnh khi làm nhiệm vụ đó chỉ là cái anh quảng cáo những mặt hàng cho sẵn, cái anh đầu bếp xào nấu những thức ăn kê sẵn thôi không? Có lẽ cần nên đọc lại tất cả các bài viết của Phạm Quỳnh và toàn bộ các bài viết của những người khác trên Nam Phong để thấy được thực chất vấn đề rộng hơn và đúng hơn. Vấn đề này đòi hỏi một công trình nghiên cứu đi sâu mà tiếc thay đến nay vẫn chưa có và do đó cần phải nhanh chóng lấp ngay “vết trắng” ấy. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nêu lên một ý là nên chăng có thể nhìn nhận Phạm Quỳnh, cũng như trước đó Nguyễn Văn Vĩnh, là những người truyền bá văn hoá, là những nhà văn “đi tiên phong” (theo cách gọi của Vũ Ngọc Phan)? Cố nhiên không có cái gì nằm ngoài chính trị cả. Nhưng việc Nguyễn Văn Vĩnh dịch Molier, Phạm Quỳnh giới thiệu Baudelaire chúng ta cứ qui sát sạt về việc chính trị thực dân, mà không cho là việc văn hoá hay sao? Làm thế chúng ta không khách quan với lịch sử và chỉ làm nghèo chúng ta đi thôi. Và trong văn cảnh này nên hiểu thế nào mấy chữ “ một ngòi bút tài tử” mà Đặng Thai Mai dùng khi thừa nhận tác giả Nam Phong viết rất khỏe bằng hai thứ tiếng Pháp, Việt “nhằm thực hiện những chỉ thị của phủ toàn quyền” như chúng tôi đã dẫn trên? “Tài tử” nghĩa là nghiệp dư, vụng về hay nghĩa là phóng túng, tự do? Trước đây đã có “học giả Phạm Quỳnh”, “tiên sinh kính trắng Phạm Quỳnh”, bây giờ có thêm “nhà báo tài tử Phạm Quỳnh” - nhân vật này quả là phức tạp, không đơn giản một chiều để mà qui kết.

Cái câu Đặng Thai Mai nói về tài ngoại ngữ của Phạm Quỳnh nổi tiếng không kém cái câu của Phạm Quỳnh tuyên ngôn về Truyện Kiều và tiếng Nam. Khi dẫn câu Ngô Đức Kế gọi Phạm Quỳnh là cái người dở Âu dở Á, chúng tôi đã nhắc đến cái câu này của Đặng Thai Mai. Một nhà cựu học và một nhà tân học cách nhau gần nửa thế kỷ mà cùng chê giống nhau như vậy thì chắc Phạm Quỳnh đúng là “chữ nghĩa tây tàu trót dở dang” (Tản Đà) thật. Vô hình trung câu thơ của Tản Đà nói đúng một thực trạng thời đại hồi bấy giờ. Ngô Đức Kế có đủ học thức để xét đoán cái vốn Hán học của Phạm Quỳnh. Nhưng tôi không nghĩ là ông đủ tự tin tri thức để bàn chuyện Pháp học của họ Phạm. Đặng Thai Mai có lẽ thuộc số “một vài học giả hồi này” đọc văn Phạm Quỳnh cảm thấy khó chịu vì hình như chủ bút Nam Phong đang “vừa học, vừa dịch, vừa viết”. Đấy là có thể do ông xuất phát từ đòi hỏi của trình độ cá nhân của ông, chứ còn xét trên bình diện chung thì nếu có một tuyển văn tiếng Pháp do người Việt Nam viết không thể không có Phạm Quỳnh và để thấy Phạm Quỳnh có phần đóng góp cho sự phát triển của tiếng Việt không thì chỉ cần đọc lại “Pháp du hành trình nhật ký” là đủ. Tôi cho rằng cần nên giải tỏa thiên kiến nặng nề về chuyện Phạm Quỳnh “bịp dân Tây, lòe dân ta” bằng mấy ngoại ngữ ấy. Đây là một vấn đề khoa học nghiêm túc. Đương thời các nhà phê bình văn học sành Pháp văn đã khen ngợi tài dịch thuật của Phạm Quỳnh. Thiếu Sơn viết ông “dịch thật đúng, thật hay, mà biết tôn trọng nguyên ý của tác giả lại lựa theo cái giọng điệu của quốc văn”[10]. Vũ Ngọc Phan viết: “Về văn dịch thuật, nếu so Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh không có giọng tài hoa bằng, nhưng nếu căn cứ vào sự dịch đúng, dịch sát ý thì họ Phạm hơn hẳn họ Nguyễn” và “Những đoản thiên tiểu thuyết Pháp, ông dịch nhiều đoạn vừa có duyên vừa sát nghĩa, đáng làm khuôn mẫu cho những nhà dịch truyện Tây”[11]. Sau này Bùi Xuân Bàotrong luận văn tiến sĩ văn chương tại đại học Sorbonne năm 1961 cũng ghi nhận công lao dịch thuật phong phú, đa dạng của Phạm Quỳnh: “Hình thức của ông rất uyển chuyển, và dù ông không trau chuốt phong cách bằng Nguyễn Văn Vĩnh, nhưng ông bám rất sát  bản Pháp văn”(Sa forme est d’une extrême souplesse et quoi qu’il témoigne de moins de talent que Nguyễn Văn Vĩnh comme artiste du style, il suit de plus près le texte francais)[12].

4. Nguyễn Văn Trung

Một nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học ở miền Nam trước đây, ông Nguyễn Văn Trung, đã cho ra hai cuốn sách liên tiếp: Chủ đích Nam Phong và Trường hợp Phạm Quỳnh nhằm một mục đích rõ ràng là “chứng minh sự thống nhất về quan điểm, chủ đích chính trị với toàn bộ những bài biên khảo, dịch thuật văn học của Phạm Quỳnh nhằm bác bỏ những luận điệu vẫn còn thông dụng tách con người chính trị và con người văn học ở nơi Phạm Quỳnh và nếu không chấp nhận lập trường chính trị thì vẫn có thể châp nhận công trình văn học”[13]. Ông tuyên bố chỉ lấy Nam Phong - Phạm Quỳnh làm một trường hợp để từ đó đặt ra vấn đề căn bản và bao quát là vấn đề giải thực tinh thần (décolonisation mentale) trong khoa học nhân văn nói chung, trong văn học nói riêng, bởi vì “Vấn đề quan điểm trong khoa học nhân văn, xét trong hoàn cảnh một nước cựu thuộc địa, hay vẫn còn là thuộc địa, mật thiết liên hệ đến vấn đề thống trị văn hóa và hậu quả của nó là một tình trạng nô lệ tinh thần đưa đến một tinh thần nô lệ đặc biệt trầm trọng trong giới trí thức bản xứ” (Sđd, tr.7). Theo định hướng như thế, Nguyễn Văn Trung trong hai tập biên khảo của mình đã tập trung giải quyết bốn vấn đề chính:

- Nam Phong là tạp chí chính trị về văn học. “Nguồn gốc xuất xứ của Nam Phong: Bộ tuyên truyền Pháp quốc hải ngoại; kẻ chủ trương: Toàn quyền Đông dương và phòng nhì phủ Toàn quyền; Chủ đích: Thực hiện một chính sách thực dân bằng sách báo nhằm tranh thủ giới trí thức chấp nhận chế độ bảo hộ bằng những chiêu bài bịp bợm” (Sđd, tr.280-281).

- Không thể tách con người chính trị ra khỏi con người văn học ở Phạm Quỳnh. “Nói cách khác, phải phê phán ý nghĩa giá trị công trình biên khảo của Phạm Quỳnh trên cơ sở sự thống nhất giữa chủ đích chính trị và nội dung văn học. Nếu phải kết án Phạm Quỳnh thì... kết án Phạm Quỳnh thời làm báo vì lúc đó Phạm Quỳnh có khả năng mê hoặc, lừa bịp một số người, và sở dĩ mê hoặc, lừa bịp được là vì Phạm Quỳnh làm chính trị bằng văn hóa núp dưới danh nghĩa một người viết báo, nhà trí thức, nhưng thực ra là một cán bộ chiến tranh chính trị của phòng nhì phủ Toàn quyền” (Sđd, tr.288).

- Không thể tìm hiểu Phạm Quỳnh theo quan điểm Phạm Quỳnh bởi vì Phạm Quỳnh có thái độ ngụy tín (attitude de mauvaise foi) thành thực tin mình yêu nước, cứu nước bằng cách làm tay sai cho Pháp. “Không kể thái độ ngụy tín, Phạm Quỳnh còn thái độ tự cao, tự kiêu, khinh bỉ mọi người! Đó là điểm người đương thời không khoan dung với Phạm Quỳnh như với Nguyễn Văn Vĩnh” (Sđd, tr.292).

- Có thể về khách quan Nam Phong và Phạm Quỳnh vẫn có công đối với văn học chăng, dù thực sự Nam Phong là công cụ chính trị về văn hóa của Pháp và Phạm Quỳnh là tay sai văn hoá của thực dân? Muốn biết thì phải có một công trình khảo sát khoa học về tờ tạp chí này và người chủ bút của nó để xem nó có tội hay là khả dĩ có để lại một số thành quả tích cực nào đó. “Trong trường hợp thứ hai, thái độ của chúng ta là phải tiếp thu những thành quả đó như những thành quả ngoài ý muốn của thực dân và do đó không thể đề cao Nam Phong vì đề cao là vô tình nói theo luận điệu thực dân, vì chỉ thực dân mới đề cao những công trình thuộc địa của họ” (Sdd, tr.294, nhấn mạnh của tôi - P.X.N).

Hai tập sách của Nguyễn Văn Trung được viết ra vào thời điểm đấu tranh cho sự hòa hợp, hòa giải dân tộc theo tinh thần Hiệp định Paris về Việt Nam (1973). Dễ hiểu là chúng đã được viết với một tính khuynh hướng xác định về chính trị và tư tưởng. Cho nên mặc dù đây là những chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về Nam Phong và Phạm Quỳnh nhưng chưa thực sự đi sâu nghiên cứu đối tượng như nó cần phải được nghiên cứu. Nói cách khác Nguyễn Văn Trung, như chính ông đã tuyên bố, chỉ lấy Nam Phong - Phạm Quỳnh làm một trường hợp, một cái cớ để bàn về một vấn đề phương pháp luận lớn rộng hơn. Vô tình ông đã rơi vào lối diễn dịch máy móc, khiến cho đọc xong hai tập sách thấy có những phần khả thủ, nhưng không tránh khỏi cảm giác bị gò ép, khiên cưỡng. Mà đã như thế thì cái việc giải thực tinh thần mà ông chủ trương là rất cần thiết quan trọng sẽ bị hạn chế kết quả, nếu như không nói là sẽ bị rơi vào một cực đoan khác khi tránh cực đoan này. Ông viết: “Bối cảnh lịch sử của văn học Việt Nam thời Pháp thuộc là một trận tuyến tranh đấu chính trị trên bình diện văn hóa giữa ta và địch” - đúng. “Vậy phải tìm hiểu đường lối mỗi phe, mỗi giai đoạn và nhất là vạch mặt những thủ đoạn dành dật công cụ; tranh thủchính nghĩa của đối phương về phía mình để biến chúng thành những chiêu bài lừa bịp” (nhấn mạnh của Nguyễn Văn Trung) - đúng. “Do đó điều quan trọng cốt yếu không phải là nói gì nhưng là ai nói và nhằm mục đích gì” - điều này thì không đúng hẳn. Ở đây Nguyễn Văn Trung gặp lại Đặng Thai Mai ở phép suy ba đoạn đã nói trên. Phạm Quỳnh là ai, viết báo làm văn vì mục đích gì thì từ trước đến nay mọi người đã khá thống nhất hiểu rõ, nhưng để đánh giá Phạm Quỳnh mà chỉ dừng lại đó thôi, không tìm hiểu những bài văn, bài báo của ông ta nội dung thế nào, trình bày ra sao, tiến bộ khoa học hay lạc hậu bảo thủ, thậm chí dựa vào hai cái trước để quy kết suy ra cái sau, thì thật chưa phải là biện chứng mác xít.

B.ĐÁNH GIÁ GHI NHẬN

1.Đánh giá theo văn học

Các tác giả theo hướng này nhìn Phạm Quỳnh ở tư cách người viết văn làm báo và căn cứ vào nội dung các bài trên Nam Phong và các bài khác đưa lại tri thức học vấn gì cho người đọc, giúp quốc văn tiến triển thế nào mà đánh giá Phạm Quỳnh. Đây là phê bình học thuật, không phải phê bình chính trị. Họ không biết Phạm Quỳnh là ai, viết nhằm mục đích gì, họ chỉ đọc vào những cái Phạm Quỳnh viết để thẩm định người viết đó có ích hay không có ích, có công hay không có công, với nền học thuật nước nhà đang ở buổi phôi thai sinh thành. Thời buổi thu lượm tri thức để học hỏi, họ thấy Phạm Quỳnh và Nam Phong có phần đóng góp mở đầu quan trọng.

1.1.Dương Quảng Hàm ghi nhận: “Ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới”[14].. Thiếu Sơn thừa nhận: “Có người không biết đọc văn Tây, văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong hun đúc mà có cái trí thức phổ thông, tạm đủ sinh hoạt ở đời. Có nhiều ông đồ Nam chỉ coi Nam Phong mà cũng biết được đại khái những văn chương học thuật của Tây phương, có lắm ông đồ Tây chỉ coi Nam Phong mà cũng hiểu qua được cái tinh thần văn hóa của Đông Á”[15].

1.2. Vũ Ngọc Phan để công phu khảo sát, phân tích tỉ mỉ các loại bài dịch thuật, trước thuật, biên tập về đủ các vấn đề lịch sử, chính trị xã hội, văn học, triết học của Phạm Quỳnh cho thấy cái công lớn của họ Phạm đối với quốc văn và giá trị của Nam Phong gần như “một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn”. Họ Vũ viết: “Trong mười sáu năm chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ Bắc chí Nam người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây. Muốn hiểu những vấn đề đạo giáo, muốn biết văn học sử cùng học thuật tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thi ca Việt Nam từ đời Lý, Trần cho đến ngày nay, muốn biết thêm lịch sử nước Nam, tiểu sử các danh nhân nước nhà, muốn am hiểu các vấn đề chính trị xã hội Âu Tây và cả học thuyết của mấy nhà hiền triết Cổ La Hi, chỉ đọc kỹ Nam Phong là có thể hiểu biết được. Một người chỉ biết đọc quốc ngữ mà có khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình. Nam Phong tạp chí sinh sau Đông Dương tạp chí bốn năm nhưng sống lâu hơn và ở vào một thời thích hợp hơn nên ảnh hưởng về đường văn chương đối với quốc dân Việt Nam đã to tát hơn nhiều”. Xin chú ý: đây là những lời của một người đương thời, lại là người nghiên cứu văn học, nên rất đáng coi trọng. Và chẳng phải bây giờ Nam Phong vẫn là một nguồn tài liệu tham khảo cần thiết, có phần đáng quí nữa, mỗi khi tìm hiểu lịch sử học thuật nước nhà cũng như lịch sử chính trị - xã hội đầu thế kỷ này hay sao? Nam Phong được “rực rỡ” như vậy, theo Vũ Ngọc Phan, là nhờ có Phạm Quỳnh “một nhà văn, học vấn đã uyên bác, lại có biệt tài, có lịch duyệt. Thật thế, Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy”. Khi Phạm Quỳnh thôi làm Nam Phong (1932), Vũ Ngọc Phan thấy “tờ tạp chí này mỗi ngày một sút kém, một non nớt, các bài văn học giá trị, các bài biên tập công phu không còn có nữa. Con mắt của chủ nhân đã vắng, nên tạp chí cứ lùi dần vào bóng tối cho đến ngày đình bản”[16]. Có thể do Pháp đã bỏ rơi Nam Phong nên nó phải chết, nhưng không thể phủ nhận vai trò cá nhân với tư cách người làm báo có tài của Phạm Quỳnh ở đây.

Nhận định của Vũ Ngọc Phan cũng phù hợp với dư luận báo chí đương thời. Một tờ như Phong Hóa chuyên công kích Nam Phong cũng thấy ra một thực tế Nam Phong thời Phạm Quỳnh như một thiếu nữ hấp dẫn nhiều người, còn khi chuyển sang Nguyễn Tiến Lãng thì như một bà già tàn tạ, khô héo. Ngẫm ra, báo chí thời nào ở đâu chẳng vậy: có người giỏi và biết làm thì hay, gặp người kém và vụng thì dở, dù đường hướng tôn chỉ của tờ báo không đổi. Hoài Thanh trong bài nghiên cứu đặt đầu quyển Thi nhân Việt Nam (1932-1941) đã dẫn lại cái câu nổi tiếng của Phạm Quỳnh để nói lên nỗi lòng yêu quý tiếng Việt của các nhà Thơ Mới: “Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam Phong: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”[17]. Thêm một lần nữa chúng ta thấy dù việc đề cao Truyện Kiều có thể có ẩn một âm mưu chính trị, nhưng câu Phạm Quỳnh nói dường như đã thể hiện tâm trạng chung của những người nặng lòng với tiếng nói nước nhà.

1.3. Nguyễn Văn Trung trong cuốn sách nêu trên của ông đã cho những nhận định đánh giá của Dương Quảng Hàm, Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh là “thiên kiến” do chỗ đã tách văn học ra khỏi chính trị ở Phạm Quỳnh, ông đề nghị những ai đã dựa vào các ý kiến trên để nói về Phạm Quỳnh, Nam Phong cần phải xem xét lại khi mà chính những người đã phát biểu các ý kiến đó cũng đã “thay đổi lối nhìn” của họ. Quả đúng là Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh đã có tự kiểm điểm (chứ chưa phải thay đổi) cách đánh giá thuần văn học của họ về Phạm Quỳnh. Vấn đề là xem những lời họ tự phê về quan điểm lập trường của mình thống nhất hay mâu thuẫn với những lời họ nghiên cứu phê bình học thuật. Vũ Ngọc Phan: “Cũng do tư tưởng tách rời văn học ra khỏi chính trị và không có lập trường giai cấp, nên khi phê phán Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh tôi chỉ thấy vụn vặt một số bài văn của chúng mà không thấy mánh khóe của chúng là nhằm phục vụ chế độ thuộc địa”[18]. Hoài Thanh: “Nhưng sai lầm tệ hại nhất là trong lời nói đầu chúng tôi đã trích dẫn và ca ngợi câu nói của Phạm Quỳnh. Chúng tôi không phải không biết Phạm Quỳnh là một tên bán nước. Trong khi trích dẫn, chúng tôi đã cố ý không nói đến tên nó cùng chức vụ Thượng Thư của nó hồi bấy giờ mà chỉ gọi theo chức vụ cũ là chủ bút báo Nam Phong. Chúng tôi muốn phân biệt học thuật và chính trị. Chúng tôi nghĩ về chính trị nó là một tên bán nước nhưng về học thuật, nó lại là kẻ có công. Mãi sau này chúng tôi mới thấy rõ học thuật của nó cũng là học thuật bán nước”[19]. Rõ ràng là giữa hai đoạn văn hai thời kỳ của hai nhà nghiên cứu này có một sự mâu thuẫn lạ lùng nếu chúng ta thừa nhận họ là hai nhà học thuật có tài đã từ rất sớm đúc kết từ đời sống văn học đương thời tạo thành hai công trình lớn có giá trị khoa học và văn chương cao. Họ có thể hiểu rõ thêm thực chất chính trị của Phạm Quỳnh, đề tìm hiểu đối tượng nghiên cứu sâu hơn, thấu đáo hơn, nhưng có nên vì thế mà đi đến phủ nhận hay thay đổi sự đánh giá về hoạt động văn hóa, văn học của Phạm Quỳnh một khi hoạt động đó khách quan đáng được đánh giá như vậy.

1.4. Bùi Xuân Bào sau khi nêu lên con đường chính trị của Phạm Quỳnh đã viết: “Nhưng chỉ với tư cách nhà văn và nhà báo Phạm Quỳnh mới thực sự phục vụ đất nước. Ông ngự trị trên đàn trí tuệ suốt mười hai năm (từ 1917 đến 1932) trong khi đem lại cho tạp chí Nam Phong mà ông phụ trách một tư thế văn học cao và một sự rạng rỡ chưa từng có.”[20]. Mức độ khẳng định, đánh giá, có lẽ còn phải cân nhắc thêm chứ không thể bác bỏ. Nói rằng không có Nam Phong văn học Việt Nam thời đó nghèo nàn, trống rỗng là đúng và bảo rằng đó là do chính sách của thực dân cấm đoán tất cả các báo chí khác, để chỉ Nam Phong độc tôn, nếu không thì người Nam còn làm được nhiều hơn cho văn học nước mình, là có lý. Tất cả vấn đề là ở chỗ hiện tượng này đã thuộc về lịch sử, mà lịch sử thì ai cũng biết là nó tồn tại như đã tồn tại chứ không phải như sẽ hay đang tồn tại. Mọi khả năng lựa chọn đều không còn xảy ra nữa đối với lịch sử. Do vậy lịch sử chỉ cho phép chấp nhận và phán xét nó, chứ không thể thay đổi nó. Chúng tôi không biện hộ cho Phạm Quỳnh và Nam Phong, nhưng “cái gì của Caesar thì trả lại cho Caesar”. Đây là một vấn đề thuộc về quan điểm nghiên cứu cần được bàn bạc, trao đổi thêm để giúp cho việc viết văn học sử nước nhà từ xưa đến nay được đúng đắn chính xác.

2. Đánh giá kết hợp chính trị và văn học

Kết hợp chứ không phải tách rời, nghĩa là hiểu quan hệ chính trị và văn học ở trường hợp Phạm Quỳnh không phải đơn giản máy móc, theo lối ánh xạ một - một. Trở lại cuộc trao đổi trên tập san Nghiên Cứu Văn Học đầu những năm 1960.

2.1. Trương Chính viết bài “ Bàn thêm về cuộc tranh luận chung quanh Truyện Kiều khoảng năm 1924” (NCVH, số 6/1961) thảo luận lại với Nguyễn Đình Chú. Ông cũng đồng ý với nhận định của Nguyễn Đình Chú về Phạm Quỳnh khi viết: “Phạm Quỳnh là một tên bồi bút. Nam Phong, cơ quan ngôn luận của y, chỉ là một công cụ thực hiện âm mưu chính trị của chính phủ thực dân. Những bài y viết đều nhằm mục đích hướng tinh thần dân tộc của thanh niên thời bấy giờ vào con đường văn chương học thuật suông, lãng quên nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống Pháp. Và việc đề cao Truyện Kiều, đề cao Nguyễn Du, đề cao ngôn ngữ Việt Nam là một khía cạnh hết sức tinh vi của âm mưu nói trên”. Những điều này các tác giả nhóm Lê Quí Đôn đã có nói kỹ trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III. Nhưng đi vào nhận định nêu trên về thực chất cuộc tranh luận chung quanh Truyện Kiều của Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh thì Trương Chính không đồng ý với cách hiểu của Nguyễn Đình Chú. Ông cho rằng không nên tách rời văn học và chính trị nhưng cũng không nên lẫn lộn văn học và chính trị. “Làm việc nghiên cứu văn học, chúng tôi thấy, đối với một nhà văn, đối với một tác phẩm văn học, hay một vấn đề văn học, không thể chỉ nhận xét về mặt chính trị mà bỏ không nhận xét về mặt văn học được. Cụ thể trong cuộc tranh luận về Truyện Kiều năm 1924, chúng tôi nghĩ rằng có việc gây phong trào sùng bái Truyện Kiều với việc đánh giá Truyện Kiều... Không hề vì thấy âm mưu kia mà quên nội dung cuộc tranh luận. Nếu đối với những nhà ái quốc như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng mà có hạ chữ “nhà nho bảo thủ” trong vấn đề phê phán Truyện Kiều thì cũng không thể vì thế mà giảm bớt lòng tôn kính của chúng ta, và nếu đối với những người tư sản, tiểu tư sản, trong đó có tên bồi bút Phạm Quỳnh, mà có hạ chữ “có thái độ mới đối với cuộc sống hơn” thì cũng không vì thế mà giảm lòng khinh bỉ của chúng ta”. Điều này là đúng, dù có hay không đưa sự yêu ghét vào khoa học nghiên cứu như Trương Chính đã làm để bảo vệ cho lập luận của ông.

2.2. Huỳnh Văn Tòng, tiến sỹ báo chí Sorbonne, cũng có cái nhìn đúng đắn và thỏa đáng về Nam Phong và Phạm Quỳnh. Tìm hiểu sự ra đời và mục đích của tờ tạp chí này ông thấy đó là một công cụ cho bộ máy tuyên truyền của chính phủ Pháp. Nhưng mặc dù mục đích chính trị hiển nhiên như vậy, xét về phương diện văn học, tờ Nam Phong đã có góp phần đắc lực vào việc phát triển nền văn học nước nhà. Nam Phong đã gây được hai ảnh hưởng quan trọng trên địa hạt ngôn ngữ và địa hạt nghiên cứu. Huỳnh Văn Tòng viết: “Nếu ngày nay chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi và trở thành ngôn ngữ chung của cả nước thì chúng ta không thể nào phủ nhận vai trò của tờ Nam Phong. Nó đã góp phần rất đắc lực vào việc làm cho văn chương Việt Nam cận đại trở nên vững chắc hơn. Tóm lại, dù muốn dù không, chúng ta cũng phải nhìn nhận trên phương diện nào đó công lao của những nhà biên tập tạp chí Nam Phong trên địa hạt văn chương mặc dù người sáng lập ra nó có dụng ý chính trị rõ rệt là phục vụ cho người Pháp”[21]. Gần đây nhất Hồng Chương khi tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam cũng có nhận định tương tự, có phần còn đi xa hơn, về Nam Phong. Ông viết: “Nam Phong tuy theo đuổi mục đích phản động, nhưng một phần bài vở của nó, về khách quan, đã giúp bạn đọc Việt Nam tìm hiểu học thuật, văn hóa, văn học nước ngoài, của phương Tây cũng như phương Đông, đặc biệt là của Pháp và Trung Quốc. Nó cũng góp phần giúp bạn đọc tìm hiểu văn học, văn hóa cổ của nước ta. Nam Phong, số 18, năm 1918 đã đăng truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn (1883 - 1924), một tác phẩm theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện thực phê phán đầu tiên ở nước ta. Số 21, tháng 3 - 1919 đã đăng bài thơ “Khuê phụ thán” của Thượng Tân Thị làm thay lời vợ vua Thành Thái thương nhớ chồng con, sau khi Thành Thái và Duy Tân bị thực dân Pháp bắt và đày sang Châu Phi.  Nam Phong đã có phần cống hiến vào việc phát triển chữ quốc ngữ và tiếng nói dân tộc”[22]. Nói Nam Phong cũng tức là nói Phạm Quỳnh, chủ bút và là cây bút chính của báo. Không thể khi phê phán Nam Phong phục vụ đắc lực cho  đường lối thực dân thì kéo theo cả chủ bút Phạm Quỳnh. Còn khi nêu ra những mặt tích cực, đóng góp của Nam Phong thì lại quên nhắc đến Phạm Quỳnh chủ bút. Cách đánh giá kết hợp là cho học thuật văn hóa không tách mà cũng không lẫn lộn văn học và chính trị càng đối với những nhân vật hiện tượng phức tạp thì càng phải khách quan, sòng phẳng bởi vì thường là sự kết hợp này ở họ cân bằng hai thành tố, không phải cứ đã theo chính trị thế nào thì văn học tự khắc phải thế ấy. Nếu vậy thì chúng ta lý giải làm sao hiện tượng Nguyễn Công Trứ trong văn học cổ giữa một nhà nho quân tử trong suy nghĩ và hành động thực tế và một nhà nho tài tử trong cảm xúc và sáng tạo thơ ca? Gần hơn trong văn học hiện đại, hiện tượng Tố Hữu cũng sẽ vấp khi xem xét nếu cứ lấy chính trị nhìn văn học, làm thế xã hội không được thêm một nhà chính trị tốt nhưng văn học bị mất đi một nhà thơ có tài. Trở lại hiện tượng Phạm Quỳnh trong văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX chúng tôi thấy vẫn cần thiết phải có một phân cách hai thời kỳ trước và sau năm 1932 trong cuộc đời chính trị của ông. Trước ông làm văn hóa trên trường chính trị. Sau ông làm chính trị trên trường chính trị. Hai giai đoạn này có tính chất, yêu cầu khác nhau nên hai đoạn đời ông thống nhất nhưng không đồng nhất.

C. Tạm kết luận

Vấn đề đánh giá Phạm Quỳnh đã có lịch sử gần một trăm năm nếu tính bắt đầu từ bài của Ngô Đức Kế. Trong khoảng thời gian ấy nhìn chung lại cái nhìn về Phạm Quỳnh là một cái nhìn phê phán, lên án, mạt sát, khinh bỉ. Cứ xem cái đại từ nhân xưng hô dùng với Phạm Quỳnh là đủ rõ. Từ cách gọi tên, cách lập luận vấn đề đến thái độ đánh giá và kết luận rút ra trong phần lớn các bài viết đều thấy rõ là dựa trên một tiền đề cơ bản: Phạm Quỳnh sai lầm, phản động về chính trị nên sai trái, nguy hại về văn hóa, học thuật. Nói một cách khác, Phạm Quỳnh trước sau là con người chính trị, dùng văn hoá làm chiêu bài hoạt động chính trị, mà lại là một thứ chính trị bán nước hại dân, do đó văn hóa cũng mất cả tính chất văn hóa. Ngay các tác giả vốn từ đầu theo quan điểm đánh giá Phạm Quỳnh ở góc độ văn học thì về sau cũng xét lại quan điểm của mình theo hướng chính trị hóa như trên đã nêu. Ảnh hưởng của cách đánh giá chủ đạo tuy cần nhưng chưa đủ ấy ghê gớm đến mức những thế hệ sau chỉ mới nghe nói đến Phạm Quỳnh và Nam Phong, cũng như Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí, đã cho ngay rằng đấy là thứ đồ bỏ đi, vô giá trị, nếu không nói là nguy hiểm. Khéo không chúng ta rơi vào một thứ chủ nghĩa hư vô văn hoá.

Ciceron từ trước công nguyên đã nói: “Nhiệm vụ thứ nhất của sử học là tránh dối trá, thứ hai - không che dấu sự thật, thứ ba - không được mảy may nào để người ta ngờ mình là cảm tình hay thiên kiến”. Câu nói chí lý, sáng suốt thay! Phải chăng chúng ta đã có phần nào thiên kiến chính trị khi xét đến công lao văn hóa của Phạm Quỳnh, cùng những tác giả khác, trong việc giới thiệu và bảo tồn vốn cổ dân tộc, trau dồi văn chương quốc ngữ nước nhà, phổ cập ngôn ngữ và văn minh Pháp cho dân chúng. Đọc lại Nam Phong hẳn nhiên những bài tán dương lộ liễu, trắng trợn chế độ thực dân Pháp và các quan cai trị Pháp là có hại, hẳn nhiên những bài đề cao các luận thuyết lỗi thời hủ lậu là có hại. Nhưng Nam Phong còn có những bài biên tập, dịch thuật, khảo cứu để lại nhiều tư liệu bổ ích, quý giá cho những người sau đến tìm hiểu, nghiên cứu. Và cả suy tư, ngẫm nghĩ nữa. Xin lấy hai thí dụ. Bài “Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế” của Phạm Văn Thư (Nam Phong, số 91, Janvier 1925) mô tả tỉ mỉ cụ thể quang cảnh Đình Bảng, trong đó có đoạn: “Trông những tượng ấy thì ra dáng cổ lắm, thế mà trên thềm đền thì lại thấy lát bằng gạch hoa “xi măng”, trông thật là lố lăng, không trách rằng người ngoại quốc chê mình rằng không biết bảo cổ, sửa sang những đền đài cổ mà chỗ thì bắt một cái khóa tây, chỗ thì đặt một khuôn cửa chớp!”. Như thế là hô hào bảo cổ hay lo lắng cho việc phục hồi tu tạo những di tích cổ không khéo bị lai căng kệch cỡm. Bài tiếng Pháp “Những vấn đề giáo dục và dạy học ở Nhật Bản và Đông Pháp” (Les problèmes d’éducation et d’enseignement Japon et Indochine) của Phạm Quỳnh (Phụ trương tiếng Pháp Nam Phong, số 102, Janvier - Fevrier 1926) nghiên cứu hệ thống giáo dục của Nhật Bản như một hình mẫu cho Đông Pháp noi theo, tác giả kết luận: “Nước An Nam hiện thời cũng đang ở trong tình trạng gần như Nhật Bản cách đây năm mươi năm, liệu nửa thế kỷ nữa nó có đạt tới trình độ hiện nay của nước đó không? Nước Pháp liệu có phải giúp nó trong việc này không và có giúp theo con đường tốt không? Vấn đề này đáng được sự quan tâm của đồng bào và các nhà giáo dục của chúng ta” (L’Annam qui est ce moment à peu près dans le même état que le Japon il y a cinquante ans, pourra-t-il dans un demi-siècle atteindre au niveau actuel de ce pays? La France pourra-t-elle l’y aider et l’y aidera-t-elle dans la bonne voie? Ce problème mérite de retenir l’attention de nos compatriotas et celle de nos éducateurs). Chẳng phải bây giờ đây cũng đang là vấn đề cấp thiết đối với nước ta mà tác giả đã nêu lên từ đầu thế kỷ XX hay sao? Những bài viết bằng tiếng Pháp đầy tâm huyết và lo âu cho vận mệnh văn hóa nước nhà và cốt để nói về lịch sử và truyền thống của Việt Nam cho người Pháp hiểu như thế này của Phạm Quỳnh đã được dịch ra tiếng Việt in trong một cuốn sách xuất bản năm 2007[23]. Tôi có tham gia cuốn dịch đó với phần « Việt Nam – những vấn đề văn hóa và chính trị » hơn một trăm trang in. Hãy đọc cuốn đó cũng như nhiều cuốn sách khác của Phạm Quỳnh đã được in ra trong chục năm qua để xác định một thái độ lịch sử khách quan, khoa học và công bằng đối với Phạm Quỳnh cũng như tạp chí Nam Phong.

Vấn đề đánh giá Phạm Quỳnh, vì vậy, theo tôi, là kết hợp cả sự đánh giá chính trị và đánh giá văn học, hai mặt không tách rời cũng không đồng nhất máy móc, cứng đờ. Và để sự đánh giá đạt mức chân thực của lịch sử và khách quan khoa học cao thì cần phải đọc kỹ Phạm Quỳnh, đọc kỹ Nam Phong, và không quên bối cảnh văn hóa của dân tộc thời ấy.


[1]Nguyễn Văn Khoan. Phạm Quỳnh một góc nhìn, Nxb Công an Nhân dân, H. 2011, tr. 32.

[2]Những chỗ nhấn mạnh là của tôi - P.X.N.

[3]Dẫn theo: Nguyễn Văn Trung. Trường hợp Phạm Quỳnh. Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1975, tr. 70.

[4]Phạm Quỳnh. Thượng Chi văn tập, tập III, Éditions Alexandre de Rhodes Hanoi, tr. 128.

[5]Hoài Thanh, theo sách: Kỷ niệm hai trăm năm sinh Nguyễn Du, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1971, tr. 164.

[6]Chú thích này lại được những người biên soạn hợp tuyển Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 - 1930) đưa vào sách, nhưng đã có sửa đổi thêm thắt, từ “chống lại quan điểm của Phạm Quỳnh” thành “chống lại một luận điệu xảo quyệt của Phạm Quỳnh” mà vẫn mở ngoặc là (chú thích của Đặng Thai Mai).

[7]Đặng Thai Mai. Hồi ký. Nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội, 1985, tr. 290 - 291.

[8]Đặng Thai Mai. Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1925), in lần thứ ba, Nxb Giải Phóng, 1976, tr. 120 - 121.

[9]Tập san Nghiên Cứu Văn Học số 4/1964, tr. 37.

[10]Thiếu Sơn. Phê bình và cảo luận, Nxb Nam Ký, Hà Nội. 1939, tr. 19.

[11]Vũ Ngọc Phan. Nhà văn hiện đại, tái bản hai tập, tập I, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội. 1989, tr. 85 - 86.

[12]Bùi Văn Bào. Le roman vietnamien contemporain (1925 - 1945). Tủ sách nhân văn xã hội, Sài Gòn. 1972, tr. 31.

[13]Nguyễn Văn Trung. Trường hợp Phạm Quỳnh. Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn. 1975, tr. 2.

[14]Dương Quảng Hàm. Việt Nam văn học sử yếu. In lần thứ mười. Trung tâm học liệu xuất bản. Sài Gòn. 1968, tr. 419.

[15]Thiếu Sơn. Sđd, tr. 20.

[16]Vũ Ngọc Phan. Sđd, tr. 108 - 110.

[17]Hoài Thanh - Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, 1932 - 1941, (tái bản). Nxb Văn Học, Hà Nội. 1988, tr. 55.

[18]Tạp Chí Văn Học, số 9/1965, tr. 71.

[19]Tạp Chí Văn Học, số 1/1965, tr. 7.

[20]Bùi Xuân Bào. Sđd, tr. 24 - 25.

[21]Huỳnh Văn Tòng. Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930. Trí Đăng xuất bản. Sài Gòn. 1973, tr. 96 - 97. Những chỗ nhấn mạnh là của tôi. - P.X.N.

[22]Hồng Chương. Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam. Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. 1987, tr. 79.

[23]Phạm Quỳnh. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932. Nxb Tri Thức, H. 2007.


Hà Nội 1992 – 2017
Phạm Xuân Nguyên
Nguồn http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/pham-quynh-va-nam-phong

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

TỔ QUỐC TRÊN HẾT
50 năm đại thắng mùa xuân
30/4 -  NGÀY HÒA BÌNH
THỐNG NHẤT NON SÔNG


 
50 năm Di chúc
“Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Đại thắng mùa xuân 1975
50 NĂM
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975

 
Luong truy cap
LƯỢT TRUY CẬP TỪ 23-12-2016
  • Đang truy cập65
  • Máy chủ tìm kiếm4
  • Khách viếng thăm61
  • Hôm nay21,305
  • Tháng hiện tại666,356
  • Tổng lượt truy cập54,781,060
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây