Thành phố của tuổi thơ tôi (3) hay: một trăm năm không cô đơn của phố núi...

Thứ sáu - 03/03/2023 15:22
Có thể nói, thành phố Buôn Ma Thuột, buôn của ông già Thuột, là vùng đất duy nhất cấp thành phố mang tên người khai sinh ra nó, ở Việt Nam. Chính vì vậy mà sương khói và huyền thoại vẫn cứ pha phất, vây quanh người Già Làng này. Tên của ông chìm trong âm vang của tiếng Cồng tiếng Chiêng suốt một trăm năm qua, bay lơ lửng như lời khan trong tâm trí của bao nhiêu thế hệ như sương mù của mùa đông phố núi.

>> Thành phố tuổi thơ tôi (2)
>> Thành phố tuổi thơ tôi (1)


Tùy bút của nhà thơ Lê Vĩnh Tài

(Tiếp thep số trước)


-----

VỠ RA MƯA ẤM

tiếng cồng thăm thẳm xa rồi
âm u ngày mẹ chuyển dạ
nào ai chọn cửa sinh ra
đất như máu mồ hôi người nóng hổi
ký ức như mây lãng quên như suối
nhiều không em...
ta lớn lên với muôn vạn vì sao
lấp lánh không cần chọn lựa
cao chi lắm núi ơi
rộng đến đâu cũng bước chân người
qua hết
sống và chết
cách một bước cầu thang
Tây Nguyên mênh mang tận cùng máu chảy
mẹ dạy ta nhìn thấy
một bông lúa rẫy cũng khát như người
giấu ngọt bùi sau lần trấu mỏng
Tây Nguyên mênh mang tận cùng sự sống
chàng DamSan yêu con gái Mặt Trời
người con gái nhìn vào chói mắt
vẫn yêu
Tây Nguyên mênh mang sau những buổi chiều
lên khói
mắt người già mệt mỏi
nhìn xa
ôi Tây Nguyên
lá vẫn xanh trong câu thơ lá đỏ
ngày nhiều nắng gió
vàng rơi
Tây Nguyên mênh mang
có những phận người...

---------

Khởi đầu từ "sứ mệnh Pavie", người Pháp thực hiện khảo sát một vùng rộng tới 676.000km², du hành 30.000km tại các vùng cao ở phía đông và bắc sông Mékong, thu thập một lượng lớn thông tin khoa học.

Chuyến khảo sát đầu tiên, từ năm 1879 tới 1885, trải rộng trên khắp Campuchia và miền nam Siam (cách gọi Xiêm La thời ấy) tới tận Bangkok. Chuyến thứ hai, từ năm 1886 tới 1889, khảo sát miền đông bắc Lào và sông Đà tại Bắc Kỳ, tới tận Hà Nội. Chuyến thứ ba, từ năm 1889 tới 1891, bao gồm việc khảo sát sông Mekong từ Sài Gòn tới Luang Prabang. Chuyến thứ tư, từ năm 1894 tới 1895, bao gồm các vùng lãnh thổ Lào giáp giới với Trung Quốc và Miến Điện tại tả ngạn sông Mekong, tới tận sông Hồng.

Năm 1894, bác sĩ Yersin đã "khám phá" ra vùng đất sau này là Darlac và KonTum, dù tuổi tên ông gắn liền với Đà Lạt.

------------

1885, Auguste Pavie là Thống đốc và Đặc nhiệm Toàn quyền Pháp tại Lào. Sự "nghiên cứu" của Auguste Pavie sinh ra "xung đột" Xiêm - Pháp.

Vua Rama V của Xiêm yêu cầu chính phủ Anh bảo hộ. Chính phủ Anh sau đó đã đàm phán với vua Pháp, hai bên đã đạt được thỏa thuận, nhiều hòa ước nhưng đến hiệp ước Entente Cordiale năm 1904 giữa Pháp và Anh mới kết thúc những tranh chấp của họ tại Đông Nam Á. Xiêm chỉ cần nhượng lại Lào chứ không phải các vùng lãnh thổ khác, Pháp bảo đảm sự toàn vẹn của phần còn lại của Xiêm. Đổi lại, Xiêm phải từ bỏ yêu sách của mình đối với các vùng Shan nói tiếng Thái (lãnh thổ phía tây sông Mê Kông xuyên qua Luang Prabang, Champasak và Tây Campuchia...)

Champasak bao gồm một phần nam Lào và Tây Nguyên...

---------------

1904 thành lập Darlac ("đại lý" thuộc Phú Yên rồi KonTum), 1923 tỉnh Darlac mới tách khỏi KonTum. Vậy các "huyền thoại" người Pháp lên Tây Nguyên để tìm gặp "Vua Lửa" còn ghi lại những tuổi tên nào?

Ta nhớ nhà thám hiểm Odend’hal bị giết ở chỗ Vua Lửa ngày 7 tháng 4 năm 1904. Được báo động, ngay ngày hôm sau viên công sứ đầu tiên của tỉnh Darlac là Léon Bourgeois phải hộc tốc kéo một đoàn quân từ Bản Đôn ra. Có lẽ từ lúc đó người Pháp đã thấy việc bất tiện của việc đóng "tỉnh lỵ" ở Bản Đôn chăng? Vì khi Bourgeois đến nhậm chức công sứ Darlac, thì ở Bản Đôn có một con người uy tín đến mức được coi là một huyền thoại sống. Người Pháp gọi ông là Khunjonob, do từ tên Khun Ju Nôb của vua Xiêm (Thái Lan) ban tặng ông, để gọi thay tên thông thường của ông là N’Thu K’nul theo cách gọi của người Mnông, còn người Ê Đê thì gọi ông là Y Thu. Bản Đôn là buôn của những hòn đảo.

- Y Thu / Khun sụ lốp, 1828 -1938.

Nhưng Tây Nguyên hồi bấy giờ vẫn đang còn tham vọng của người Xiêm. Họ thường xuyên đưa quân sang, do một nhân vật tên là Luong-Sakhon dẫn đầu, Khunjonob còn phải tặng vua Xiêm một con bạch tượng, con voi trắng quý nhất và duy nhất ông săn được. Sau nhiều cuộc chạm trán, nhà thám hiểm và chinh phục Cupet mới đẩy được Luong-Sakhan khỏi Bản Đôn. Mấy ngày sau khi viên tướng Xiêm này chết đâu đó trong rừng, có thể do một vết thương, ý đồ của người Xiêm từ đó mới cơ bản chấm dứt. Sau khi Luong-Sakhon bị Cupet đánh bật, Khunjonob thay đổi thái độ, bắt tay Bourgeois. Là người hết sức thông thuộc đia thế và dân tình ở Darlac, chính ông lại khuyên Bourgeois không nên để tỉnh lỵ ở Bản Đôn nữa mà cần chuyển đến một địa điểm thuận lợi hơn về mọi mặt, cách chỗ cũ 54 km.

Và như vậy cái tên Buôn Ma Thuột hay Ban Mé Thuôt từ đây chính thức ra đời.

- Ama Thuột / Y Mun H’Dơk, 18?? - 1923. Năm sinh không rõ đã đành, cả năm mất cũng mơ hồ. Người Pháp chỉ nhắc cái tên này nhiều hơn (dù trước đó, 1900 đã có xứ Banmé-thuot). Bốn ông Công sứ Pháp liên tiếp được đưa đến Darlac từ năm 1899 đến 1913, gồm Léon Bourgeois, Charles Bardin, Henri Besnard, Louis Cottez để tích cực thực hiện chỉ dẫn đó của Vua Voi.

Thành phố Banmé-Thuôt hay Buôn Ma Thuột (theo cách gọi của người Rhade) từng bước hình thành.

Năm 1923 tại Buôn Ma Thuột có một đám ma rất lớn của một người Rhade rất quyền lực. Qua một ghi chép của Roland Dorgeles thuộc Viện Hàn lâm Goncuort, đăng trên tạp chí Les Aunales số ra ngày 15-5-1930 thì đám tang (nghi là của ông Ama Thuột). Bài viết này được tác giả Minh Mẫn dịch lại, đặt tên là “Đám tang Ama Thuột” (bản dịch không đúng như nguyên bản) và đăng trên tạp chí Xưa và Nay, hiện đang lưu giữ tại bảo tàng Darlac.

Trích:  

“Sinh thời ông Ama Thuột là một nhân vật quan trọng. Ngôi nhà của ông ta rất dài, có nghĩa là ông ta rất giàu. Cái chết của ông trùm tang tóc lên Ban Mê Thuột / Buôn Ma Thuột vì không biết ai sẽ là người thừa hưởng những con voi, trâu, ché rượu, cồng chiêng và thóc lúa ông ta để lại. Toàn thể dân Ban Mê Thuột đến dân làng lân cận, và cả các tay thợ săn voi của Bản Đôn đều có mặt lên đường từ ngày hôm trước với ngọn đao trên vai, họ đã phải qua đêm sau hàng rào của trạm bảo vệ nghỉ vì sợ bị cọp vồ. Đàn voi và bầy ngưạ dẫn đầu đám tang. Để đưa được một bậc kỳ hào đến nơi an nghỉ cuối cùng thì gào thét tốt hơn là khóc lóc. Và do đó tiếng gào thét của đám đông xô bồ ấy át cả tiếng trống. Đám tang vị tù trưởng có rất đông người dân Ban Mê Thuột, các buôn lân cận và cả thợ săn voi vùng Bản Đôn đến đưa tang. Huyệt mộ nằm trong một khoảnh rừng thưa, phải dùng đàn voi giày, làm ngã cây mới có lối vào…”.

Trích thêm:

"Người bị chôn cất không phải chỉ Ma-Thuột mà cả cái quá khứ đáng thương của cả vùng đất. Và định mệnh đã muốn tôi có mặt tại đó để gióng lên tiếng cồng nơi bờ huyệt của ông ta..."

Có lẽ do văn của Roland Dorgelès quá hay mà sau này người ta quy kết nó là "văn chương" (nên không đáng tin cậy về "tài liệu"), nhưng cũng theo Nguyên Ngọc, thì chính nó lại bị loại khỏi giải văn chương Pháp năm đó vì ban giám khảo không cho nó là "fiction" mà là "nonfiction".  

Như vậy, chúng ta chỉ biết người Pháp đã gọi tên vùng đất này (từ 1900) là Banme-thuot (theo tiếng Lào) Buonma-thuot (theo tiếng Rhade) chứ tiểu sử của ông không được ghi chép lại như nhiều già làng thế hệ ông. Huyền thoại Ama Thuột lại bay pha phất, tài liệu duy nhất có thể gán cho ông lại là một tác phẩm của một nhà văn, trong khi những tuổi tên của các Ama khác của thế hệ ông lại được người Pháp ghi chép và có cả hình ảnh, khá rõ ràng.

- Vì khi quay lại ông vua voi Y Thu, sẽ giúp chúng ta gặp ông  Ama Jhao / Mé Sao (1840 - 1905).

Vì chính vào giai đoạn ông Y Thu tư vấn người Pháp " dời đô" từ Bản Đôn (làng của những hòn đảo) về Ban Mê (làng của ông già Thuột), một người anh hùng / thủ lĩnh cùng thế hệ với ông Y Thu là ông Ama Jhao / Mé Sao (1840 - 1905), người mà theo mô tả lại của Henri Maitre, từng tung hoành đến tận miền núi Phú Yên, đã phải nhận lấy cái chết. Ông chấm dứt những ngày tháng "chống Pháp" hào hùng của mình. Vùng đất của ông làm chủ nằm trên QL 21, dọc theo đường đi Ninh Hòa. Và khi "kẻ chống đối quyết liệt cuối cùng" đã chết, đến lúc công cuộc xây dựng Ban Mê Thuột thực sự có thể bắt đầu, với những bài toán mới của nó. Và một nhân vật mới được đưa đến để đối mặt với những bài toán ấy, sẽ được nhắc tên ở cuối bài.

Và từ khi 1923 thành lập tỉnh Darlac, cho đến 1931 thì đến lúc xã Lạc Giao (cách gọi tiếng Việt của "vùng đất của ông Ama Lak / Phán Lạc "cho") ra đời. Đình Lạc Giao thờ cụ Đào Duy Từ (với hàm ý "người mở cõi"). Vậy ông Ama Lak là ai?

Ông Y Say KTla (1890 -1845) chính là ông Ama Lak, người Việt gọi ông là ông Phán Lạc.

Ông là "thư ký tòa luật tục" của Darlac từ 1923, khi ông Y Thu là "chánh tòa". Nhưng chúng ta thấy trên bản đồ Ban Mê Thuột 1918, thì người Pháp đã có "bố trí" dinh cơ / nơi làm việc của ông Y Thu rồi. Chứng tỏ lúc đó ông Y Thu phải bỏ Bản Đôn "ra phố" thường xuyên, không chờ đến 1923, và cũng không rõ cụ thể là làm gì? Người thứ 2 chính là ông Y Say, ông cũng có tên trong bản đồ Ban Mê Thuột 1930.

Không rõ vì sao chỉ có 2 ông là được người Pháp chép tên trên bản đồ của xứ sở này?

Kể một chút qua "Tòa luật tục."

Thời Nhà Nguyễn thì mỗi châu có quan Lang (Thái – Mường) và Tri Châu (Nùng – Thổ). Đến thời Pháp, khi cao nguyên thuộc lãnh thổ Trung Kỳ, tức đã là đất của triều đình Huế, dù Pháp nắm quyền hành. Bên cạnh các "Tòa công sứ", người Pháp lập thêm các "Tòa luật tục" do người bản địa đứng đầu để "tham gia" cai quản vùng đất bằng "các luật tục của dân tộc mình". Và triều đình thì bổ mỗi tỉnh một người Việt làm "Quản đạo". Trong số các quản đạo do triều đình Huế bổ nhiệm cai trị cao nguyên, ông Tôn Thất Hối đầu tiên giữ chức quản đạo Djiring, rồi sau đổi lên làm quản đạo Darlac. Sau đó ông Tôn Thất Hối quay lại làm quản đạo tại Đà Lạt. Ông Tôn Thất Hối chết năm 1975 tại Ban Mê Thuột.

Khu vực nhà văn hóa Thanh Thiếu Nhi bây giờ, ngày đó là khu vườn Tôn Thất Hối với ngôi nhà của BS Niệm (Tôn Thất Niệm, con trai ông, làm "chủ sự Dân Y Viện Darlac, đến khoảng 1967 thì BS kiêm ca sĩ Niệm về Sài Gòn.)

Quay lại ông Y Say, ông mất năm 1945. Mộ của ông do vợ (là người cung nữ được Đức Từ Cung gả cho) tên Nguyễn Thị Mùi phụng lập. Mộ cải táng của ông Y-Say và Y-Lăk (con trai ông) hiện vẫn còn, ở sát cạnh nhà thờ Giáo họ Giu-Se, phường Tân Thành. Bà Nguyễn Thị Mùi cũng mất tại Ban Mê Thuột vào khoảng thập niên 80. Bà có hai con trai, các cháu nội vẫn đang sống tại Ban Mê Thuột.

Kể thêm một chút về ông Y Thu.

Lăng mộ của vua voi N'Thu K'Nul do R'leo K'Nul, người kế tục sự nghiệp, cho xây dựng. Mộ có kiến trúc M'nông và Lào với mô típ hình khối trên có trang trí hình búp sen ở bốn góc và đỉnh mộ. Và mộ của R'leo K'Nul, người nối nghiệp ông, cũng ở ngay bên cạnh, được xây dựng rất đẹp theo mô típ hình chóp nhọn của dân tộc Lào. Do hai ngôi mộ liền kề nhau và kết hợp hài hòa như một nên người ta hay nhầm tưởng đây là một ngôi mộ duy nhất, và mộ R' Leo lại tưởng là mộ vua voi Khunjunob.
 
Y Thuột (? - 1930)

Trong "quyết định" bổ nhiệm ông Y Say KTla làm thư ký thì chúng ta thấy có tên ông Y Thuột (con ông Ama Thuột?), làm trưởng Buôn Niêng. Năm sinh của ông không rõ, chỉ biết ông Y Thuột mất vào khoảng tháng 5-1930 (tức là sau cha [nuôi] là ông Ama Thuột khoảng 7 năm). Không rõ ông Y Thuột có người con nào với bà vợ H'Wênh Alêo ở Buôn Niêng hay không. Nên chúng ta cũng không nghe ông Y Thuột là Ama gì?

Như vậy, đã có một người tên là Y Thuot lúc đó là Trưởng Buôn Niêng, được bổ nhiệm thêm chức Thẩm phán Tòa Luật tục Darlac từ ngày 07-11-1923, có một người vợ tên là H’Wênh Alêô ở Buôn Niêng. Mà ông Y Thuot có "người cha" là Ama Thuột, thiết nghĩ cũng bình thường.

Ôi vùng đất của những Amí, Ama. Của những tuổi tên người...
 
Của những trí thức như các thầy giáo Y Jut (1888-1934), tên đầy đủ là Y Jut Hwing, được ghi nhận là tác giả chính của bộ chữ viết Êđê ngày nay, cùng với bạn bè như Y Ut, Y BLul. Nhưng (có ý kiến) rằng bộ chữ này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Y-Jut qua đời năm 1934 tại Buôn Ma Thuột còn Y-Ut Niê Brit (Ama Puk) năm 1962 tại Buôn Đôn.

Và những lớp hậu sinh của các ông vẫn tiếp tục sinh ra ở phố núi. Chúng ta vẫn còn một Ama Kong với bài thuốc cường dương huyền thoại, đến giờ vẫn không ngớt người tìm mua. Phố núi vẫn tiếp tục sinh ra một Ama HRin, ba của anh Arul Emmanuel (phó GĐ Bệnh viện vùng hiện nay), chủ buôn A-Cô-Thôn như cổ tích giữa lòng thành phố... Ông Ama HRin còn người con trai nữa là ca sĩ Y Jak (cùng với Y Phôn, Y Moan... những "huyền thoại sống" của âm nhạc Tây Nguyên hiện đại), ông cũng chính là người coi sóc việc xây dựng Tòa Giám Mục và nhà thờ Chính Tòa của Ban Mê Thuột vào thập niên 60, hai công trình tuyệt đẹp vẫn còn giữa lòng thành phố.
 
Khúc fantasia về Amí Ama:

- Một người ngồi dậy, một dáng người mờ mờ và câm lặng trên đống than hồng sắp tàn. Trên trời một màn sương mù là là trôi, chầm chậm xóa đi hình ảnh những ngôi sao, một làn hơi nước đang tỏa rộng che phủ cả buôn Kram, mặt đất trôi lạnh và xám trong bóng tối, những cơn gió xoáy tít cuốn quanh những thân cây le nhỏ và tròn và vây quanh ngôi nhà này, ngôi nhà dường như đang bồng bềnh trên biển ảo mơ hồ và không ngơi nghỉ, dường như nó là vật duy nhất còn sót lại.

Một cơn gió làm ông rùng mình.

Rồi từ sau cánh rừng đen âm u và dập dềnh một con đại bàng trắng vụt bay lên thành một vệt tối trước khi mất hút vào bầu trời xanh.
 
Thành phố trên cao bazan màu đỏ hiện ra.
 
------------

Có một người không phải Ama, là ông Sabatier.

Ông đến nhậm chức Công sứ Darlac năm 1914, cai trị tỉnh này 11 năm. Rồi bị cách chức và gần như bị đuổi về nước năm 1926. Ông là người phát hiện ra: là "chỉ cần dịch cần chuyển 500 mét, ông đã tạo cho Ban Mé Thuột một thế đứng khác hẳn, không chỉ thoáng đãng về không gian phát triển của chính nó, mà còn có thể thực sự trở thành trung tâm phát triển của cả một xứ sở rộng lớn và đầy triển vọng." Dưới thời ông, tình Darlac đã có đầy đủ các tuyến đường giao thông, kết nối khắp nơi để "tròn vai" thủ phủ Tây Nguyên như hiện nay.

Ông cũng là người phát hiện, dịch ra tiếng Pháp các luật tục Tây Nguyên mà sau này còn bay pha phất trong "công trình" của nhiều nhà nghiên cứu người Việt. Ông cũng là người soạn từ điển Pháp - Rhade, là người dịch và giới thiệu rộng rãi sử thi Đam Sam, hoàn thiện việc "latinh hóa" bộ chữ Rhade. Vấn đề sử thi Tây Nguyên, từ ông, từ Sabatier, mới được đặt ra, và đưa đến những phát hiện mới không ngờ: Cả một kho tàng văn học truyền khẩu phong phú cả về lượng và chất đến kỳ lạ, dường như bất tận, và hình như cũng chưa tìm thấy tương tự ở đâu khác…

Tôi xin nhắc tên ông cuối cùng...

Vùng đất của những sử thi, những bài trường ca. Thành phố tuổi thơ tôi...

Lê Vĩnh Tài

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

TỔ QUỐC TRÊN HẾT
CM tháng 8 và QK 2/9
79 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG 8
& QUỐC KHÁNH 2/9
Luong truy cap
50 năm Di chúc
“Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”
LƯỢT TRUY CẬP TỪ 23-12-2016
  • Đang truy cập153
  • Hôm nay41,537
  • Tháng hiện tại222,972
  • Tổng lượt truy cập60,106,779
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây