Người lính hải quân của đoàn tàu không số

Thứ hai - 01/11/2021 16:26
Con tàu nhổ neo nhằm hướng Nam thẳng tiến, đi trên biển cả mênh mông màu xanh của nước biển hút tầm mắt mới thấy được đại dương bao la đến nhường nào. Lênh đênh 6 ngày đêm trên biển thì tàu đã về đến Cà Mau, nhận được tín hiệu của đất liền, tàu trưởng hạ lệnh cho tàu cập bến.
 
Người lính Tàu không số: Ông Nguyễn Văn Bạc
Người lính Tàu không số: Ông Nguyễn Văn Bạc

Đến tân gia nhà ông Nguyễn Văn Bạc, quê ở ấp Vĩnh Thới xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang tôi mới biết ông là một trong những người lính của đoàn tàu không số anh hùng năm xưa.
 
Ông năm nay đã 76 tuổi với dáng người đậm đà chắc  khoẻ, có nước da bánh mật, da của người đi biển chịu nắng chịu gió. Đôi mắt hãy còn tinh nhanh, đọc sách báo chưa cần  phải dùng đến kính. Trong ngày vui vừa mới xây xong được căn nhà mới, tôi may mắn được nghe ông kể lại về con đường binh nghiệp của mình:

Trước năm 1954, ông là bộ đội chủ lực miền ở đại đội 943, tiểu đoàn 309 thuộc sư đoàn 330, tập kết ra Bắc đóng quân ở Thanh Hoá. Ông nghĩ tưởng sau hai năm đi tập kết, khi Bắc Nam thống nhất thì được về quê hương đoàn tụ gia đình.  

Nào ngờ Mỹ Diệm đã tráo trở, chúng phá hoại hiệp định Giơnevơ đã được ký kết. Chúng đề ra luật 10/59, lê máy chém đi khắp miền Nam, tố cộng và diệt cộng. Quê hương ông chìm trong khói lửa, đau thương, tang tóc bao chùm lên từng nếp nhà, bao đồng chí, đồng bào đã hy sinh, không ngày nào là không có máu chảy đầu rơi. Lòng ông như lửa đốt nhớ thương quê hương , thắt từng khúc  ruột, biết bao đêm không sao ngủ được nhớ cha mẹ, nhớ người thân ông đã viết đơn tình nguyện nhiều lần mong  được trở lại quê hương cầm súng chiến đấu để trả thù cho đồng bào, cho bao người thân yêu bị giặc sát hại, nhưng không được tổ chức chấp thuận.

Đầu năm 1961, ông  được lệnh điều động về đoàn 125 học vận hành máy của tàu biển, học cách đi biển của thuỷ thủ, học tập chính trị.

Đến tháng 3 năm 1961, ông được điều về Hà Nội gặp quân uỷ Trung Ương, đại tướng Võ Nguyên Giáp và thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận nhiệm vụ đặc biệt. Trước khi lên đường, đại tướng có căn dặn, ông  còn nhớ như  in  lời dặn dò của đại tướng  “Các đồng chí được Đảng và nhà nước giao nhiệm vụ vận chuyển  hàng hoá, vũ khí, đạn dược mang vào giao tận tay cho đồng bào miền Nam, để đánh đuổi giặc Mỹ thống nhất nước nhà. Chúng ta không thể chỉ đấu tranh chính trị với giặc mà phải đấu tranh bằng cả võ trang, phải có quả đấm thép, nhiệm vụ của các chú rất vinh dự nhưng cũng hết sức nặng nề là phải đưa bằng được hàng đến nơi và phải hết sức giữ bí mật. Đảm bảo bí mật trước mắt là đảm bảo an toàn tính mạng cho bản thân mỗi đồng chí, sau nữa là giữ gìn bí mật của quốc gia. Các đồng chí cố gắng tránh né, không để cho kẻ địch phát hiện. Khi kẻ địch phát hiện được tấn  công thì bần cùng lắm mới nổ súng bắn trả và phá huỷ tàu không để rơi vào tay giặc”. Ông còn cho biết dưới gầm tàu đã được gài sẵn  500 kg thuốc nổ TNT và tám kíp điện, chỉ cần ấn vào nút tự động là có thể phá huỷ toàn bộ tàu không để lại một dấu vết .

Thượng tá đoàn trưởng Võ Hồng Phước, đại diện cho đoàn đặc biệt 125 lên hứa trước đại tướng, toàn đoàn hạ quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho. Trước lúc lên đường đơn vị làm lễ truy điệu cho từng đồng chí một, ai cũng hứa quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trở về bình yên.  Anh em đều hồ hởi phấn khởi nóng lòng chỉ muốn đi nhanh để được trở lại quê hương gặp lại người thân đồng đội sau bao ngày xa cách.

Con tàu nhổ neo nhằm hướng Nam thẳng tiến, đi trên biển cả mênh mông màu xanh của nước biển hút tầm mắt mới thấy được đại dương bao la đến nhường nào. Lênh đênh 6 ngày đêm trên biển thì tàu đã về đến Cà Mau, nhận được tín hiệu của đất liền, tàu trưởng hạ lệnh cho tàu cập bến.

Ông còn nhớ rõ chuyến hàng đầu tiên được cập bến ngã tư  Xảo Lưới Cà Mau. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi hỏi han tình hình chiến sự của đồng bào miền Nam, tình hình hợp tác hoá tiến lên chủ nghĩa xã hội của đồng bào miền Bắc đến đâu rồi, Bác Hồ có được mạnh khoẻ không ? vv… Hàng được khẩn trương bốc dỡ và phân tán đến nơi an toàn.

Sau ba ngày đêm đoàn tàu lại dời bến quay đầu ra Bắc, khi về tàu đi nhanh hơn do nhẹ và lại đi theo hải phận quốc tế nhập vào các tàu buôn và tàu đánh cá của các nước vì thế cho nên tránh đươc tai mắt của kẻ địch.

Sau 15 ngày đêm tàu đã về đến cảng Hải Phòng an toàn trong niềm hân hoan chào đón của anh em.  

Ông cho biết, đây là chuyến hàng đi chót lọt thuận lợi, có nhiều chuyến các ông đi phải mất trên một tháng. Khi xuất phát gặp gió mùa cấp 5, cấp 6 biển động giữ dội, con tàu lắc lư chao đảo, không thể nấu ăn được, nhiều thuỷ thủ bị say sóng ói mửa đến mật xanh, mật vàng chỉ còn lại trưởng, phó tàu và ông là máy trưởng người mệt nhừ vì bị sóng nhồi nhưng vẫn bám trụ điều khiển cho máy chạy đều và còn  phục vụ các đồng chí bị đau yếu, say sóng. Đồng chí tàu trưởng điều khiển cho tàu vượt sóng đi không chệch hướng.

Những khi sóng to gió lớn là những lúc địch sơ hở nhất, thuận lợi cho tầu ta tiến quân. Nhiều bận hết nước ngọt, rau xanh anh em phải tạt vào quần đảo của Malaysia lấy đọt dừa thay rau xanh , tìm nguồn nước ngọt bổ sung, và khi bắt liên lạc được với đất liền tàu mới tìm được bãi đổ hàng…

Cứ như vậy từ năm 1961 ông  đã bám trụ với con tàu không số. Đến năm 1972, khi địch phát hiện được ta vận chuyển bằng đường biển thì công tác vận chuyển lúc này hết sức khó khăn nhất là bãi đáp hàng.

Có lần tàu  vào đến Vũng Rô, đang cho hàng bốc xuống gặp địch tuần tra các đồng chí phải chống tra địch quyết liệt và huỷ tàu không để rơi vào tay giặc, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh, một số anh em còn sống sót phải hành quân theo đường Trường Sơn bảy, tám tháng sau mới về lại đơn vị.

Năm 1972, các ông từ tàu sắt chuyển sang tàu nhỏ đóng bằng gỗ loại 30 đến 35 tấn có hai đáy, tầng dưới chuyên chở vũ khí, tầng trên bỏ lưới và các ngư cụ đóng giả làm các ngư dân đánh cá trên biển để che mắt của kẻ địch. Đến giờ ông không còn  nhớ rõ bao nhiêu tấn hàng  được chở từ Bắc vào Nam trong thời gian đó , nhưng chín lần trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, là chín lần đơn vị làm lễ truy điệu ông, thế rồi các ông đều hoàn thành nhiệm vụ và trở về một cách an toàn.

Đến cuối năm 1975, ông được điều về làm phó giám đốc nhà máy sửa chữa tàu biển 202 ở Đồng Tâm, hoàn chỉnh những chiếc tàu hỏng để phục vụ cho đánh cá và tuần tra canh gác biên giới phía nam của tổ quốc. Ở cương vị nào dù bất cứ công việc gì ông cũng hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được phân công.

Năm 1983, ông về nghỉ hưu tại quê nhà. Tuy tuổi cao, sức khoẻ giảm nhưng với phẩm chất của người lính cụ Hồ ông vẫn  tích cực tham gia xây dựng thôn ấp như làm hội trưởng hội cựu chiến binh, hội phó hội người cao tuổi xã, trưởng ban khuyến học.

Ông vận động bà con cải tạo vườn tạp, xoá bỏ cầu khỉ, cải tạo đường xá nông thôn, đắp bờ vùng nuôi tôm cá, ở đâu ông cũng được bà con tin yêu mến phục. Các con của ông ngày một khôn lớn có gia đình riêng cả, công việc ổn định có thu nhập khá. Từ thu nhập do trồng cây ăn quả, nuôi cá và đồng lương hưu tiết kiệm cùng với sự trợ giúp của các con, ông vừa xây lại được căn nhà mới khang trang rộng rãi có đầy đủ tiện nghi.

Trong ngày vui, đi cùng ông  ra thăm vườn,  dưới vòm lá xanh của khu vườn vú sữa sum suê râm mát ông tâm sự “Cuộc đời tôi thế là thoả nguyện lắm rồi, mình may mắn còn sống được đến ngày hôm nay, như con tàu lênh đênh sau bao lần bão gió bị vùi dập giữa đại dương giờ đây đã cập bến bờ bình yên, được nhìn thấy nước nhà thống nhất, đổi mới to đẹp con cháu phương trưởng có cuộc sống ấm no như ngày nay là hạnh phúc lắm rồi.  Chỉ thương các đồng đội đã anh dũng hy sinh cho đất nước được thống nhất mà không biết giờ này còn nằm lại nơi đâu !...”

Đi bên ông mà lòng tôi dâng lên một niềm kính phục, một con người bình dị mà anh dũng đã lập nên biết bao những chiến công hiển hách phi thường trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, năm lần ông đã được Đảng và nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất, nhì, huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhì, huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, huân chương quân kỳ  quyết thắng và nhiều bằng khen cùng huy hiệu năm mươi năm tuổi Đảng.

Ông và những đồng đội của ông xứng đáng là những tấm gương sáng cho đời đời, lớp lớp con cháu noi theo.

Nguyễn Quang Huỳnh
11/28 Bình Đường, An Bình, Dĩ An, Bình Dương
ĐT 0779482755
(Dựa theo lời kể của ông Nguyễn Văn Bạc )




 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

17/2
17/2/1979 - 17/2/2025
 
50 năm Di chúc
“Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Luong truy cap
TỔ QUỐC TRÊN HẾT
LƯỢT TRUY CẬP TỪ 23-12-2016
  • Đang truy cập153
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm152
  • Hôm nay36,321
  • Tháng hiện tại463,546
  • Tổng lượt truy cập65,477,635
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây