Trong đời người lính, có rất nhiều kỷ niệm gắn bó với những tháng ngày gian khổ nơi chiến trường máu lửa. Cựu chiến binh Nguyễn Duy Châu cũng vậy, bao ký ức của một thời chiến tranh vệ quốc vĩ đại, vẫn vẹn nguyên trong tâm trí của người lính năm xưa, nay đã bước qua tuổi “xưa nay hiếm”.
Ông Nguyễn Duy Châu và các cháu nội, ngoại.
Ông Châu kể, ngày 22/11/1965, mặc dù chưa đủ tuổi nhập ngũ nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông xung phong đi bộ đội, trở thành người lính công binh thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 152 (Quân khu 4), đơn vị làm nhiệm vụ giúp nước bạn Lào và bảo vệ tuyến hành lang vận tải đường Hồ Chí Minh.
Ba năm sau, ông được cử đi học lái xe một tháng tại Hương Khê (Hà Tĩnh). Bởi thời gian quá ngắn nên anh em học viên chỉ được học và thực hành những nội dung cơ bản về kỹ thuật, kỹ năng. Sau này ngẫm lại, ông Châu nói, thực tế nơi chiến trường mới là trường dạy lái quan trọng nhất để chúng tôi luyện tay nghề, trở thành những tay lái cừ khôi, vượt qua mọi thử thách gian nan để hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần tất cả cho tiền tuyến.
Kết thúc khóa học, ông được biên chế về đơn vị 963, hoạt động trên tuyến vận tải hàng hóa từ phía Bắc vào các cửa khẩu thuộc đường 12 và 20, miền tây Quảng Bình. Đầu năm 1970 ông chuyển công tác về Đại đội 5, Tiểu đoàn 101, đơn vị hai lần Anh hùng lực lượng vũ trang. Cuối năm 1970 ông được biên chế về Trung đoàn 13, Sư đoàn 571, Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn.
Ông kể cho tôi nghe một kỷ niệm không thể nào quên trong đời binh ngũ mà bây giờ, dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng mỗi khi nhớ lại vẫn cảm thấy bồi hồi, xúc động.
Tháng 9/1971, đơn vị ông tập kết tại biên giới Việt Lào, chuẩn bị vượt khẩu thực hiện chiến dịch vận chuyển mùa khô 1972. Lúc ấy ông là tiểu đội trưởng, chỉ huy 10 xe loại ZIL-130. Một hôm, ông được cấp trên gọi lên giao thêm nhiệm vụ đặc biệt, đưa nhà thơ Phạm Tiến Duật đi thực tế chiến trường. Lúc ấy, cánh lái xe Trường Sơn cũng đã nghe danh nhà thơ trẻ. Ông cũng như đồng đội của mình, không ai là không thuộc nằm lòng thơ Phạm Tiến Duật viết về người lính 559 nói chung và cánh lái xe vận tải nói riêng. Những câu thơ như chắt ra từ trái tim người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, nóng bóng hơi thở chiến tranh, mà ông cũng như đồng đội luôn cảm thấy đó chính là hình ảnh của bản thân mình trong những chuyến xe trên đường ra trận.
Thật không thể giấu nổi xúc cảm khi được cấp trên tin tưởng giao cho nhiệm vụ đặc biệt đó. Ông mường tượng, trong buồng lái chật hẹp, ngồi bên cạnh ông là nhà thơ trẻ nổi tiếng, chỉ hơn ông dăm sáu tuổi. Nghĩ thế, ông cảm thấy lòng mình lâng lâng. Cái cảm giác ấy, theo ông suốt mỗi chuyến xe và cả cuộc đời mỗi khi nhớ lại Trường Sơn một thời máu lửa.
Rồi không còn là mường tượng nữa. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã theo ông suốt một chặng đường dài, từ cửa khẩu 20 (Quảng Bình) vào tận Phnôm Pênh (thủ đô Campuchia), nơi đặt binh trạm tập kết hàng hóa của ta để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đó là những kỷ niệm đẹp của một thời máu lửa. Thật hiếm hoi trên đường ra trận, người lính lái xe Trường Sơn lại cùng nhà thơ - chiến sĩ ngồi chung buồng lái. Suốt chặng đường dài, người lái xe tập trung cao độ, căng mắt, căng óc giữ cho tay lái luôn chắc chắn, vững vàng vượt qua những cung đường nguy hiểm, giữ an toàn hàng hóa và quan trọng hơn, an toàn cho nhà thơ – nghệ sĩ – chiến sĩ đang ngồi suy tư bên cạnh. Chỉ những lần hiếm hoi dừng lại nơi binh trạm, cả hai mới có dịp trò chuyện với nhau. Mặt mày ai nấy lem luốc bụi đường, không còn nhận ra nhau nữa. “Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, ông Châu hào hứng đọc lại mấy câu thơ trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật và nói, ông ấy làm thơ mà cứ như đi guốc trong bụng người lính chúng tôi vậy. Tôi nhìn ông cười, thì ông Duật cũng là lính mà anh.
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng người lính lái xe Trường Sơn năm xưa vẫn nhớ như in những câu thơ của người bạn đồng hành trên chuyến xe chở hàng ra mặt trận: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Giọng người lính già đã bước qua tuổi “xưa nay hiếm” vẫn còn rất chắc khỏe và đầy tự tin như cách đây hơn nửa thế kỷ trong buồng lái chiếc ZIL-130 ngồi nghe nhà thơ Phạm Tiến Duật - người bạn đồng hành trên những chuyến xe ra tiền tuyến - đọc những câu thơ tắm mình trong khói lửa chiến tranh.
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”, ông Châu bảo, câu thơ này của nhà thơ Phạm Tiến Duật thật giản dị nhưng chạm vào trái tim lính. Mỗi lần lên xe ngồi sau vô lăng nổ máy, nhấn ga, trong tâm tưởng người lính lái xe chúng tôi lại vang lên âm hưởng của câu thơ ấy; nó như một lời động viên, nhắc nhở, nó tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để chúng tôi đạp bằng mọi gian khổ hy sinh, đưa những chuyến xe an toàn ra tiền tuyến, góp phần vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc mùa xuân năm 1975, để đất nước có ngày 30/4 hòa bình, thống nhất.
Nguyễn Duy Xuân
P/S: Ông Nguyễn Duy Châu sinh ngày 24/6/1948 tại thôn Kim Chung, xã Nam Lâm (nay là xóm 1, xã Xuân Hồng, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Ông đã được Nhà nước và Quân đội phong tặng nhiều phần thưởng cao quý: 2 Huân chương Chiến công, 3 Huân chương Kháng chiến, 1 Huân chương chống Mỹ cứu nước, 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 2 Huân chương Chiến sĩ giải phóng, 2 danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 1 danh hiệu Chiến sĩ quyết thắng và 4 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ Trường Sơn quyết thắng.